Phân khúc bán lẻ cao cấp

Thống kê của Savills cho hay, từ 2010 - 2015, giá thuê của Hà Nội giảm -3,5%/năm, trong khi tại TP. HCM tăng gần 1%/năm.

Có thể thấy, phân khúc bán lẻ của TP.HCM và Hà Nội cùng trong giai đoạn phát triển non trẻ, cả hai thành phố đều có mức giá trung bình tương đương 10% so với Hồng Kông, một trong những thành phố có mức giá cao nhất thế giới, hơn gần gấp đôi so với thị trường xếp thứ hai là Singapore.

Phân khúc bán lẻ của TP.HCM và Hà Nội cùng trong giai đoạn phát triển non trẻ

Phân khúc văn phòng cao cấp

Theo báo cáo của Savills, trong nửa sau 2015, giá thuê văn phòng cao cấp ở Hà Nội đạt 39 USD/m2 và TP. HCM đạt 51 USD/m2.

Từ 2010 đến 2015, giá thuê Hà Nội giảm -4,2%/ năm, trong khi TP. HCM tăng 0,7% năm

Phân khúc căn hộ dịch vụ cao cấp

Giá thuê căn hộ dịch vụ cao cấp ở Hà Nội đạt 42 USD/m2 và TP. HCM đạt 31 USD/m2 trong nửa sau 2015. Từ 2011 đến 2015, giá thuê của Hà Nội và TP. HCM giảm lần lượt -1,2%/năm và -0,3%/năm.

Về giá thuê bán lẻ ở TP. HCM giảm trung bình 2%/năm tính từ năm 2012. Khu vực ngoài trung tâm có mức tăng cao nhất ở mức 2,62%.

Đây là mục tiêu phát triển mới của nhiều chủ đầu tư cần có quỹ đất lớn để đáp ứng nhu cầu giải trí tăng cao.

Ngược lại, giá thuê bán lẻ ở Hà Nội giảm trung bình -6,8%/năm tính từ 2012, với xu hướng giảm trong cả ba khu vực, mức giảm nhiều nhất thuộc khu vực cao cấp ở mức -7,8%/năm do nhiều trung tâm bán lẻ chất lượng cao gia nhập thị trường ở khu vực ngoài trung tâm có mức giá thuê thấp hơn, dẫn đến làm giảm giá thuê trung bình của 3 khu vực.

Tính từ tám thành phố lớn nhất của Việt Nam, tổng diện tích bán lẻ đạt 2,8 triệu m2, trong đó TP. HCM và Hà Nội chiếm 75%.

Tuy nhiên, các thành phố khác trong khu vực như Bangkok, Singapore và Kuala Lumpur có mật độ cao hơn nhiều so với Việt Nam, lần lượt ở mức 0,9, 0,7 và 0,7m2/người.

Cơ cấu văn phòng 

Cũng theo Savills, từ 2010 đến 2015, nguồn cung văn phòng ở TP. HCM tăng khoảng 50% lên 1,5 triệu m2, với Hạng A, B và C tăng lần lượt 8%, 6,8% và 10,2%/ năm.

Giá thuê ổn định dù công suất cho thuê tăng 27 điểm phần trăm, và mặc dù nguồn cung Hạng A tăng thêm 100.000 m2 từ sự gia nhập của Bitexco Financial Tower, Times Square và Vietcombank Tower, Hạng A có công suất cho thuê tăng cao nhất ở mức 14 điểm phần trăm.

Trong quý I/2016, tổng số vốn từ các dự án FDI hiện tại và mới đăng ký đạt 2,7 tỉ USD, trong đó nhóm ngành sản xuất và chế biến chiếm 72% và bất động sản chiếm 6%, là hai ngành phát triển mạnh với nhu cầu diện tích văn phòng thấp nhưng nhu cầu vốn cao.

Theo Tuấn Việt (Tổng hợp)/GIa đình Việt Nam