Nguồn gốc của phong tục dựng cây nêu

Cây nêu ngày Tết có nguồn gốc từ câu chuyện “ Sự tích cây nêu ngày Tết” của tác giả Nguyễn Đổng Chi:

Ngày xưa Quỷ chiếm toàn bộ đất, còn Người chỉ làm thuê, và nộp phần lớn lúa thu hoạch cho Quỷ. Quỷ ngày càng bóc lột Người quá tay, và cuối cùng Quỷ tự cho mình hưởng quyền "ăn ngọn cho gốc".

Người chỉ được hưởng rạ, tuyệt đường sinh nhai nên cầu cứu Đức Phật giúp đỡ. Phật bảo Người đừng trồng lúa mà trồng khoai lang. Mùa thu hoạch ấy, Người được hưởng trọn củ khoai, còn Quỷ chỉ hưởng lá và dây khoai, đúng theo phương thức 'ăn ngọn cho gốc'.

Mùa kế, Quỷ chuyển qua phương thức "ăn gốc cho ngọn". Phật bảo Người lại chuyển sang trồng lúa. Kết quả, Quỷ hưởng toàn rạ, lại hỏng ăn.

Quỷ tức lộn ruột nên mùa sau tuyên bố "ăn cả gốc lẫn ngọn". Phật trao cho Người giống cây ngô (bắp) để gieo khắp nơi. Quỷ lại không được gì, còn Người thì thu hoạch cơ man là bắp ngô. Cuối cùng Quỷ nhất định bắt Người phải trả lại tất cả ruộng đất không cho làm rẽ nữa.

Phật bàn với Người điều đình với Quỷ, xin miếng đất bằng bóng chiếc áo cà sa treo trên ngọn cây tre. Quỷ thấy không thiệt hại gì nên đồng ý. Khi đó Phật dùng phép thuật để bóng chiếc áo cà sa đó che phủ toàn bộ đất đai khiến Quỷ mất đất phải chạy ra biển Đông.

Mất đất sống, Quỷ huy động quân vào cướp lại. Phật bày Người tấn công bằng máu chó, lá dứa, tỏi, vôi bột... Quỷ thua và bị đày ra biển Đông. Trước khi đi, Quỷ xin Phật thương tình cho phép một năm được vài ba ngày vào đất liền viếng thăm phần mộ của tổ tiên cha ông. Phật thương hại nên hứa cho.

Do đó, hàng năm, cứ vào dịp Tết Nguyên Đán là những ngày Quỷ vào thăm đất liền, người ta theo tục cũ trồng cây nêu để Quỷ không bén mảng đến chỗ Người cư ngụ. Trên nêu có treo khánh đất, có tiếng động phát ra khi gió rung để nhắc nhở bọn Quỷ nghe mà tránh. Trên ngọn cây nêu còn buộc một bó lá dứa hoặc cành đa mỏ hái để cho Quỷ sợ. Ngoài ra, người ta còn vẽ hình cung tên hướng mũi nhọn về phía Đông và rắc vôi bột xuống đất trước cửa ra vào trong những ngày Tết để cấm cửa Quỷ.

Ảnh minh họa.

Ảnh minh họa.

Theo đó, cây nêu thực chất đó là cây tre, được các gia đình trồng ở trước sân, dựng trong nhà, phía trên có thể treo một số vật dụng mang tính chất của địa phương.

Tuy nhiên một số đồng bào dân tộc người Mường, H’Mông, một số dân tộc ở Gia Lai; nêu có thể là những cây bương, lồ ô hoặc các loại cây thân gỗ cao, chắc như cây gạo cũng có thể được làm nêu.

Theo quan niệm dân gian, vào ngày 23 tháng Chạp, khi mà Ông Táo về trầu trời, mặt đất không còn ai cai quản, nên loài quỷ thường dễ lẻn về quẫy nhiễu; nên dựng cây nêu trước sân tại mỗi gia đình là để trừ tà.

Trên mỗi cây nêu, người ta thường buộc nhiều thứ như túi nhỏ đựng trầu cau, ống sáo, những miếng kim loại lớn nhỏ,…. hay treo những vật dụng có tính chất biểu tượng của địa phương, dân tộc như lá phướn, chuông gió. Khi có gió thổi chúng chạm vào nhau và phát ra tiếng leng keng; như lời báo hiệu đây là đất đã có chủ, loài quỷ đừng có vào quẫy nhiễu.

Ban tối, người ta treo thêm một chiếc đèn lồng để Tổ tiên biết đường về nhà ăn Tết với con cháu

Đối với người Kinh, cây nêu được dựng trước Tết 7 ngày và sau Tết 7 ngày thì có lễ hạ nêu. Người Mường thì dựng cây nêu muộn hơn, vào ngày 28 tháng Chạp bắt đầu dựng nêu. Đối với đồng bào H’Mông, họ có hẳn lễ hội Gầu Tào (dựng cây nêu để cầu phúc hoặc cầu mệnh) từ ngày mồng 3 đến ngày mồng 5 tháng Giêng âm lịch.

Ý nghĩa của tục dựng nêu ngày Tết

Trong phong tục lâu đời của người dân Việt Nam, dựng nêu ngày Tết mang triết lý âm dương: Trời ở trên, Đất ở dưới, cây nêu ở giữa là sự kết nối giữa Càn (trời) -  Nhân (người) -  Khôn (đất) – thành sự thống nhất, tác động qua lại Âm – Dương luân chuyển, tạo nên sự xoay vòng của vạn vật hữu linh trong vũ trụ.

Khởi nguyên ban đầu, cây nêu được dựng với ý nghĩa biểu tượng cho sự đấu tranh giữa ma quỷ (cái Ác) với con người (cái Thiện) nhằm bảo vệ cuộc sống bình an cho loài người.         

Trên ngọn cây nêu treo một vòng tròn nhỏ, vòng tròn này buộc nhiều thứ khác nhau  như: Lá phướn, túm lá dứa, lông gà, cành đa, lá thiên tuế, những chiếc khánh (chuông gió) để những khánh đó va đập nhau kêu leng keng trong gió; cùng một tán tròn bằng tre nứa dán giấy đỏ...

Chiếc khánh, đồng âm với “khánh” có nghĩa là “phúc”: năm mới đem lại hạnh phúc cho gia đình; lá dứa để dọa ma quỷ (ma quỷ sợ gai)…

Tán tròn bằng giấy đỏ tượng trưng cho Mặt Trời và ngọn nêu là nơi chim thần (sứ giả của Mặt Trời) đậu.

Ngày xưa khi chưa cấm đốt pháo, người dân còn treo bánh pháo tại cây nêu đốt đón mừng năm mới, mừng tổ tiên về với con cháu, xua đuổi ma quỷ hoặc những điều bất hạnh của năm cũ, cầu mong một năm mới tốt lành. 

Quan trọng và ý nghĩa hơn cả, trong các lễ hội, cây nêu chính là tâm điểm cố kết cộng đồng, nơi người người, cộng đồng tìm thấy niềm vui, may mắn và sự hạnh phúc trong năm mới; mọi sự xui xẻo của năm cũ được gạt bỏ.

Theo Lương Đức Hiển/Đô thị mới