Theo đó, sẽ phát triển công nghiệp ô tô trở thành ngành quan trọng phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa, góp phần phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo an ninh, quốc phòng của đất nước.

Dồn trọng tâm vào việc phát triển các dòng sản phẩm xe 9 chỗ ngồi, xe tải, xe khách và hình thành những doanh nghiệp có quy mô lớn, có khả năng dẫn dắt thị trường.

Thống kê cho hay, tính đến năm 2015, ngành sản xuất ô tô Việt Nam đã có trên 400 doanh nghiệp, tập trung chủ yếu ở khu vực Đông Nam Bộ và vùng Đồng bằng Sông Hồng. Đa số đây là những doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ.

Tổng công suất lắp ráp thiết kế đạt khoảng 460.000 xe/năm, trong đó khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 47%, doanh nghiệp trong nước chiếm 53%.

Tổng số lượng xe tiêu thụ qua các năm

Hình thành doanh nghiệp qui mô lớn 

Theo kế hoạch của Bộ Công thương, sẽ thu hút và tập trung các chính sách ưu đãi, hỗ trợ các doanh nghiệp có Dự án đầu tư sản xuất các dòng xe ưu tiên có quy mô công suất trên 50.000 xe/năm và dự án sản xuất các bộ phận động cơ, hộp số, cụm truyền động.

Đối với xe chở người đến 9 chỗ ngồi

Định hướng cho giai đoạn đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035 đối với dòng xe này là tập trung vào phát triển các sản phẩm xe con phù hợp với người Việt Nam và xu hướng phát triển xe con của thế giới gồm: Xe cá nhân, kích thước nhỏ, tiêu thụ ít năng lượng, thân thiện với môi trường và giá cả phù hợp với người tiêu dùng Việt Nam.

Đối với xe tải và xe khách

Với dòng xe này, Bộ Công thương định hướng: Tập trung vào phát triển các chủng loại sản phẩm sản xuất trong nước có lợi thế và các sản phẩm phục vụ nông nghiệp, nông thôn; các loại xe chuyên dùng, gồm có: xe tải nhỏ đa dụng phục vụ cho nông nghiệp, nông thôn; xe khách tầm trung và tầm ngắn; xe chở bê tông, xi téc và đặc chủng an ninh - quốc phòng; xe nông dụng đa chức năng.

Tính đến năm 2015, ngành sản xuất ô tô Việt Nam đã có trên 400 doanh nghiệp 

Về công nghiệp hỗ trợ

Định hướng cho lĩnh vực này là tăng cường hợp tác giữa các doanh nghiệp trong nước và các doanh nghiệp lớn nước ngoài trong việc sản xuất linh kiện và phụ tùng, trong đó tập trung vào các bộ phận quan trọng, hàm lượng công lượng công nghệ cao để phục vụ nhu cầu của thị trường trong nước, thay thế nhập khẩu, tiến tới xuất khẩu.

Cụ thể tỷ lệ giá trị sản xuất chế tạo trong nước đối với sản xuất ô tô:

Đến năm 2020, xe đến 9 chỗ đạt 30 - 40%, từ 10 chỗ trở lên đạt 35 - 45%, xe tải đạt 30 - 40%, xe chuyên dụng đạt 25 - 35%.

Đến năm 2025, xe đến 9 chỗ đạt 40 - 45%, từ 10 chỗ trở lên đạt 50 - 60%, xe tải đạt 45 - 55%, xe chuyên dụng đạt 40 - 45%.

Đến năm 2035, xe đến 9 chỗ đạt 55 - 60%, từ 10 chỗ trở lên đạt 75 - 80%, xe tải đạt 70 - 75%, xe chuyên dụng đạt 60 - 70%.

Thị trường ô tô hiện đã có sự tham gia tích cực và rộng rãi của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, trong đó có một số công ty trong nước như Công ty cổ phần Ô tô Trường Hải (Thaco), Công ty cổ phần Huyndai Thành Công... và một số tập đoàn ô tô lớn trên thế giới như Toyota, Ford, Honda, Mitsubishi,....

Mặc dù thị trường ô tô Việt Nam bước đầu đã hình thành nên một ngành công nghiệp hỗ trợ, cung cấp một số phụ tùng cho sản xuất, lắp ráp ô tô trong nước và đóng góp đáng kể cho ngân sách nhà nước, giải quyết công ăn việc làm cho khoảng 100 ngàn lao động trực tiếp nhưng vẫn còn đó những tồn tại cần khắc phục.

Bộ Công thương cho rằng đó là vấn đề chưa tạo được sự hợp tác - liên kết và chuyên môn hoá giữa các doanh nghiệp trong sản xuất - lắp ráp ô tô và sản xuất phụ tùng linh kiện, chưa hình thành được hệ thống các nhà cung cấp nguyên vật liệu và sản xuất linh kiện quy mô lớn.

Bên cạnh đó, ngành công nghiệp hỗ trợ công nghiệp ô tô dù đã hình thành, nhưng mới chỉ sản xuất được một số ít chủng loại phụ tùng đơn giản, có hàm lượng công nghệ thấp như gương, kính, ghế ngồi, bộ dây điện, ắc quy, săm-lốp, sản phẩm nhựa ... Chỉ một số ít doanh nghiệp đầu tư dây chuyền dập thân, vỏ xe.

Đi sâu vào các dòng xe, chủng loại xe, đối với chủng loại xe chở người dưới 9 chỗ ngồi (xe con), tỷ lệ nội địa hoá đạt thấp.

Nguyên nhân là do đối với lĩnh vực sản xuất, lắp ráp xe chở người đến 9 chỗ ngồi, Việt Nam là nước đi sau trong khu vực (so với các nước như Thái Lan, Indonesia, Malaysia).

Trong khi đó, trước khi đầu tư dự án lắp ráp tại Việt Nam, các Tập đoàn ô tô lớn đều đã đầu tư các dự án sản xuất ô tô con có qui mô lớn trong khu vực.

Công suất các dự án sản xuất ô tô con thường được tính toán cho thị trường khu vực, chứ không tính riêng cho quốc gia đặt nhà máy sản xuất. Thị trường xe con có sự cạnh tranh quyết liệt giữa các Tập đoàn toàn cầu.

Đối với chủng loại xe ô tô tải và xe chở người trên 10 chỗ ngồi (xe khách), tỷ lệ nội địa hoá gần đạt mục tiêu đề ra.

Các chủng loại xe này là để phục vụ sản xuất – kinh doanh, ít có sự thay đổi về mẫu mã, có thời gian sử dụng dài, kích thước lớn nên không có lợi thế khi nhập khẩu.

Vì vậy các dòng xe tải và xe khách sản xuất trong nước vẫn có cơ hội phát triển.

Theo Tuấn Việt (Tổng hợp)/GIa đình Việt Nam