Đây là thông tin đáng chú ý trong văn bản trả lời chất vấn vừa được Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc gửi đến đại biểu Quốc hội Nguyễn Thị Kim Thúy (Đoàn đại biểu Quốc hội TP Đà Nẵng).

Nợ bảo hiểm xã hội năm 2018 đã giảm

Trước đó, tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIV, Thủ tướng Chính phủ nhận được chất vấn của đại biểu Nguyễn Thị Kim Thúy: “Bao giờ Chính phủ sẽ có biện pháp xử lý nợ đọng BHXH để bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng về BHXH của NLĐ? Khoản nợ này có được xem là nợ công không?”. Trả lời chất vấn của đại biểu, Thủ tướng cho biết, thực hiện quy định tại khoản 7 Điều 10 Luật BHXH, Chính phủ và các Bộ, ngành, địa phương cũng đã triển khai nhiều biện pháp để bảo đảm quyền lợi của NLĐ.

Cụ thể như: Quy định cho phép các DN đang gặp khó khăn còn chậm đóng tiền BHXH, bảo hiểm thất nghiệp được đóng riêng cho từng NLĐ. Trên cơ sở đó kịp thời giải quyết quyền lợi cho NLĐ đủ điều kiện hưởng các chế độ BHXH (ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hưu trí và tử tuất); Ghi nhận quá trình đóng BHXH cho NLĐ chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc để kịp thời được giải quyết chế độ bảo hiểm thất nghiệp hoặc tiếp tục tham gia BHXH tại các đơn vị, DN mới.

Thủ tướng Chính phủ cũng ban hành Chỉ thị số 05/CT-TTg về tăng cường thực hiện chính sách BHXH và bảo hiểm y tế; Chỉ thị số 34/CT-TTg về tăng cường thực hiện đồng bộ các nhóm giải pháp phát triển đối tượng tham gia BHXH; kiến nghị Quốc hội bổ sung tội trốn đóng BHXH, bảo hiểm thất nghiệp trong Bộ luật Hình sự năm 2015.

Chỉ đạo Bộ LĐ-TB&XH có nhiều văn bản gửi Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, BHXH Việt Nam và UBND các tỉnh, TP trực thuộc Trung ương đề nghị đôn đốc, chỉ đạo triển khai thực hiện nghiêm các quy định của Luật BHXH. Trong đó tập trung vào các giải pháp mở rộng diện bao phủ BHXH, tăng cường tính tuân thủ pháp luật, hạn chế tình trạng trốn đóng, chậm đóng BHXH.

“Chính phủ và các Bộ, ngành, địa phương đã triển khai nhiều nhóm giải pháp. Qua đó đã từng bước hạn chế được tình trạng nợ đóng, chậm đóng BHXH, bảo hiểm thất nghiệp. Số nợ BHXH đã giảm hơn so với những năm trước. Quyền lợi của NLĐ trong các đơn vị, DN đang nợ đóng BHXH, bảo hiểm thất nghiệp được giải quyết kịp thời hơn”, Thủ tướng cho biết.

chu doanh nghiep bo tron quyen loi nguoi lao dong bo ngo
Công nhân chờ giải quyết chế độ khi chủ DN bỏ trốn. Ảnh minh họa

Thống kê lao động bị ảnh hưởng trong DN phá sản, có chủ bỏ trốn

Bên cạnh những kết quả đạt được, Thủ tướng cũng nhìn nhận, việc bảo đảm quyền lợi của NLĐ vẫn chưa được giải quyết triệt để trong trường hợp DN phá sản, rút giấy phép kinh doanh hoặc có chủ là người nước ngoài bỏ trốn mà còn nợ tiền đóng BHXH, bảo hiểm thất nghiệp.

Thủ tướng cho biết, về vấn đề này, Chính phủ đã giao cho Bộ LĐ-TB&XH chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan nghiên cứu đề xuất các phương án và xây dựng văn bản quy định bảo đảm quyền lợi của NLĐ.

Tuy nhiên, việc nghiên cứu, xây dựng văn bản gặp vướng mắc do Luật BHXH, Luật Việc làm và Luật Ngân sách Nhà nước đều không quy định nội dung chi đối với trường hợp này nên vượt quá thẩm quyền của Chính phủ. Mặt khác, thông lệ quốc tế cũng không quy định đối với các trường hợp này.

Do vậy, để bảo đảm quyền lợi của NLĐ, trong thời gian tới Chính phủ sẽ tiếp tục chỉ đạo các Bộ, ngành, địa phương tiếp tục thực hiện đồng bộ các giải pháp tăng cường tính tuân thủ pháp luật về BHXH, hạn chế tình trạng trốn đóng, chậm đóng BHXH, bảo hiểm thất nghiệp. Trong đó, chú trọng đến việc xây dựng ứng dụng tra cứu thông tin về BHXH trên thiết bị di động nhằm cung cấp kịp thời thông tin đóng, hưởng BHXH tới NLĐ.

Tiến hành rà soát, thống kê cụ thể số NLĐ bị ảnh hưởng quyền lợi trong các DN phá sản, rút giấy phép kinh doanh, có chủ là người nước ngoài bỏ trốn khỏi Việt Nam (số NLĐ, thời gian nợ và tiền lương đóng BHXH, bảo hiểm thất nghiệp của từng người cụ thể). Kết quả rà soát, thống kê sẽ làm cơ sở cho việc nghiên cứu, đánh giá tác động toàn diện (tránh tạo ra tiền lệ để các DN khác lợi dụng tiếp tục trốn đóng làm ảnh hưởng đến quyền lợi NLĐ). Đồng thời làm cơ sở cho những đề xuất trong quá trình sửa đổi Luật BHXH và các luật khác có liên quan; đồng bộ với các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu được nêu tại Nghị quyết số 28-NQ/TW của Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về cải cách chính sách BHXH.

Nợ BHXH không phải là nợ công Theo Thủ tướng, việc xác định nợ công được thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 1 và Điều 4 của Luật Quản lý nợ công. Luật Quản lý nợ công cũng chỉ điều chỉnh các quan hệ liên quan đến hoạt động vay, sử dụng vốn vay, trả nợ và nghiệp vụ quản lý nợ công. Chủ thể nợ BHXH mà đại biểu Nguyễn Thị Kim Thúy đề cập là DN (người sử dụng lao động). Vì vậy, căn cứ quy định nêu trên, khoản nợ BHXH của DN không phải quan hệ vay nợ nên không thể xác định là nợ công.

Tính đến ngày 30-9-2018, tổng số tiền sợ các loại BHXH của các DN đã giải thể, phá sản, chấm dứt hoạt động (bị rút giấy phép kinh doanh); đang chờ giải thể, phá sản; DN có chủ là người nước ngoài bỏ trốn, DN không còn hoạt động tại địa điểm đăng ký kinh doanh là 1.003 tỷ đồng với 59.000 lao động. Việc nợ BHXH làm ảnh hưởng đến quyền lợi của NLĐ, có thể gây mất ổn định an toàn trật tự, an toàn xã hội, khiếu kiện kéo dài, đình công tập thể, dễ bị đối tượng xấu lợi dụng, kích động, lôi kéo...

Thanh Hải

Theo phapluatxahoi.vn