1. Ung thư vú là gì?

Ung thư vú là loại ung thư thường gặp nhất và là nguyên nhân phổ biến thứ hai gây tử vong do ung thư ở phụ nữ. Ung thư vú ít khi xảy ra ở nam giới.

Để hiểu bệnh ung thư vú, cần tìm hiểu cấu trúc giải phẫu của vú. Hầu hết các vú bao gồm mô mỡ, và trong đó là dây chằng, mô liên kết, mạch bạch huyết và các hạch, mạch máu.

Trong một vú nữ có 12-20 phần bên trong nó được gọi là thùy, từng tạo thành tiểu thùy nhỏ sản xuất sữa. Các thùy và tiểu thùy được nối với nhau bằng ống dẫn, mang sữa tới núm vú.

Loại phổ biến nhất của ung thư vú là ung thư ống dẫn, được gọi là ung thư biểu mô ống động mạch, chiếm hơn 80% của tất cả các bệnh ung thư vú.

Ung thư biểu mô tiểu thùy, chỉ chiếm hơn 10% các trường hợp. Phần còn lại của bệnh ung thư vú có đặc điểm của cả ung thư biểu mô ống động mạch và ung thư biểu mô tiểu thùy, hoặc có nguồn gốc không rõ.

  1. Dấu hiệu của ung thư vú

Đau tức ở ngực

Bạn bỗng cảm thấy ngực mình đau tức ngay cả những ngày bình thường, khi tới gần ngày kinh nguyệt thì ngực bạn càng thấy đau hơn nữa, giống như bị sưng vù lên vậy, cảm giác đau khiến bạn không dám chạm vào ngực mình nữa.

Vú to lên bất thường

Vú bạn luôn cương cứng và to lên hơn mức bình thường kể cả chưa tới ngày kinh nguyệt.
Kích thước, hình dạng vú méo mó không bình thường.

Có hạch ở dưới nách

Bạn sờ thử từ bầu ngực vuốt lên trên theo đường hõm nách thì thấy có hạch nổi lên ở nách.

Hạch ở nách là giai đoạn đầu tiên phát triển bệnh ung thư vú.

Có u cục ở vú

Khi sờ nắn theo đường vòng xung quanh vú thì bạn sẽ thấy có u cục nổi ở trong vú giống như là những viên sỏi nhỏ ở trong vú.

Các dấu hiệu của ung thư vú

Những u cục này có thể là u lành tính hoặc u ác tính, nên đi khám xét để có được hướng điều trị tốt nhất và kịp thời.

Núm vú bị tụt vào trong

Núm vú bị tụt hẳn vào trong, cứng, dùng tay kéo ra cũng không được, núm vú không cương lên được như bình thường mà cứ vẫn tụt vào trong như thế.

Vùng da quanh đầu núm vú thay đổi

Vùng da xung quanh đầu núm vú bị co rút da, co rút núm vú, nhăn nheo.
Có các hạt nhỏ ở quầng vú xung quanh núm vú.

Có biểu hiện của viêm da vùng quanh vú

Các biểu hiện viêm da vùng quanh vú như: da đỏ, phù dưới dạng da cam. Chảy nước. Bong da vảy nến. Ngứa dị ứng

  1. Điều trị ung thư vú

Phẫu thuật

Phẫu thuật cắt bỏ vú: Là phương pháp bác sĩ sẽ cắt bỏ đi toàn bộ tuyến vú và vét sạch hạch ở nách.

Phẫu thuật bảo tồn vú: Còn được gọi là cắt bỏ riêng khối u hoặc cắt bỏ một phần. Trong phẫu thuật bảo tồn vú, chỉ cắt bỏ mô ung thư và một phần mô xung quanh cũng như các hạch trong hệ bạch huyết.

Phạm vi phẫu thuật cắt vú phụ thuộc vào kích thước và vị trí của khối u và các yếu tố khác. Sau phẫu thuật bảo tồn vú, bệnh nhân nhất thiết phải xạ trị.

Xạ trị

Là phương pháp dùng năng lượng cao của tia phóng xạ X tiêu diệt các tế bào ung thư cùng với việc làm khối u co nhỏ lại.

Có thể bắn tia phóng xạ từ máy móc vào cơ thể ( liệu pháp xạ trị ngoài) hoặc là dùng các ống nhỏ làm bằng chất dẻo đưa những chất liệu săn sinh ra tia phóng xạ (các đồng vị phóng xạ) vào những vùng có tế bào ung thư (liệu pháp xạ trị trong).

Xạ trị rất quan trọng sau khi tiến hành phẫu thuật bảo tồn vú, vì trong phẫu thuật bảo tồn, phần lớn các mô vú được giữ nguyên vẹn.

Việc xạ trị sẽ làm giảm khả năng tái phát ung thư vú.

Xạ trị thành ngực không cần cho các trường hợp đã phẫu thuật cắt bỏ tuyến vú triệt căn, khối u nhỏ, diện cắt âm tính, hạch nách âm tính.

Bổ trợ toàn thân

Sau khi phẫu thuật, điều trị bổ trợ toàn thân cần được xem xét. Quyết định điều trị dựa trên cân nhắc giữa lợi ích giảm được tái phát, di căn với nguy cơ về độc tính của điều trị, tác động của các bệnh kèm theo.

Điều trị hóa chất: Đây là cách mà dùng thuốc để điều trị ung thư theo một pháp đồ điều trị đã được định hình sẵn.

Các loại thuốc có thể đưa vào cơ thể bằng cách uống hoặc tiêm trực tiếp vào tĩnh mạch máu. Điều trị hóa chất được áp dụng tốt nhất đối với các bệnh nhân dưới 70 tuổi.

Hoặc các khối u nhỏ, đường kính bé hơn hơn 0.5cm, và không có di căn hạch nách.

Điều trị nội tiết: Điều trị nội tiết có thể áo dụng cho hầu hết bệnh nhân có thụ thể nội tiết dương tính hoặc không rõ.

Thời gian dùng thuốc hợp lý là 5 năm, bắt đầu sau khi đã hoàn tất điều trị hóa chất./.

Theo Nhật Linh (Tổng hợp) / Gia đình Việt Nam