Phát biểu tại Hội nghị trực tuyến thúc đẩy sản xuất nông nghiệp trong điều kiện dịch bệnh COVID-19 do Bộ NN&PTNT tổ chức ngày 12/3, Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường nhìn nhận: “Sau dịch bệnh bao giờ cũng có nhu cầu lương thực, thực phẩm lớn, có thể nói là nhu cầu bùng nổ.Vì vậy, cần chuẩn bị để có nguồn hàng cung ứng cho thị trường”.
Dịch chồng dịch
Theo Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường, dịch bệnh COVID-19 đã thành đại dịch, hết sức nguy hiểm, gây ra 2 vấn đề bao trùm là đe dọa sức khỏe, tính mạng người dân trên toàn cầu và làm rối loạn nên kinh tế thế giới. Dịch bệnh này tác động đến hầu hết các quốc gia. Hiện nay, ngoài đối mặt với dịch bệnh COVID-19, ngành nông nghiệp còn hứng chịu cả tính cực đoan của thời tiết như mưa đá trên diện rộng, hạn hán, dịch tả lợn châu Phi, dịch cúm A/H5N1...
Trong bối cảnh các thị trường truyền thống của nông sản Việt như Trung Quốc, EU đang vô cùng căng thẳng trong cuộc chiến chống dịch bệnh COVID-19, việc đi tìm thị trường mới, đồng thời phát triển chuỗi cung ứng ở ngay thị trường nội địa là một hướng đi cần thiết. Theo ông Dương Thanh Tùng, Giám đốc Sở NN&PTNT tỉnh Bắc Giang, nếu dịch bệnh COVID-19 không lắng xuống chắc chắn việc xuất khẩu vải thiều sang thị trường chính là Trung Quốc sẽ gặp khó khăn. "Trước tình hình này, chúng tôi quan tâm đến công tác rải vụ để vải Bắc Giang được tiêu thụ trong khoảng 2 tháng. Theo đó, diện tích chín sớm đạt 6.000 ha, chiếm 21% diện tích, tỷ lệ ra hoa đạt 90 – 95%, sản lượng khoảng 40.000 tấn, dự kiến cho thu hoạch từ 20/5-15/6; vải chính vụ tỷ lệ ra hoa thấp hơn nhưng sản lượng vẫn đạt khoảng 120.000 tấn, thu hoạch từ 15/6-20/7. Ngoài ra, Bắc Giang cũng tìm kiếm những thị trường mới như Nhật Bản, thúc đẩy tiêu thụ trong nước", ông Tùng cho biết.
Cũng theo ông Tùng, để việc tiêu thụ vải thiều hiệu quả, tỉnh chỉ đạo các địa phương nâng cao chất lượng, hướng dẫn nông dân chăm sóc vải theo quy trình an toàn; chỉ đạo ngành công thương xúc tiến tiêu thụ trong nước, mở rộng kênh phân phối ở thị trường miền Trung, miền Nam để đề phòng trường hợp dịch bệnh COVID-19 có thể làm ảnh hưởng đến xuất khẩu. "Có một tin vui là năm nay, vải thiều Bắc Giang sẽ chính thức được xuất khẩu sang Nhật Bản. Hiện, tỉnh đã và đang phối hợp với Cục Bảo vệ thực vật xây dựng mã số vùng trồng, hướng dẫn nông dân chăm sóc theo quy trình đáp ứng yêu cầu của Nhật Bản; mời gọi các doanh nghiệp lớn để mở rộng thị trường xuất khẩu" – ông Tùng cho biết thêm.
Tăng cường đầu tư chế biến nông sản
Trong khi đó, ông Trần Châu, Chủ tịch UBND tỉnh Bình Định thừa nhận một thực tế, việc xuất khẩu, tiêu thụ nông sản của tỉnh đang gặp khó khăn do ảnh hưởng của dịch bệnh COVID-19. "Hiện trên địa bàn tỉnh còn khoảng 15.000 tấn dưa hấu gặp khó khăn trong tiêu thụ; cuối tháng 3, chúng tôi thu hoạch khoảng 48.000 tấn ớt, mặt hàng này trước chủ yếu xuất khẩu sang Trung Quốc, trong bối cảnh dịch bệnh như hiện nay chắc chắn việc tiêu thụ sẽ gặp khó khăn", ông Châu thông tin.
Cũng theo ông Châu, dịch bệnh COVID-19 bùng phát ở nhiều nước EU cũng khiến xuất khẩu cá ngừ đại dương, tôm, đồ gỗ của tỉnh gặp khó khăn. Sản lượng khai thác cá ngừ của tỉnh khoảng 2.600 tấn, khi dịch chưa bùng phát mạnh, việc xuất khẩu sang châu Âu chưa gặp vấn đề gì lớn nhưng hiện còn tồn 600 tấn; tôm đã sơ chế 150 tấn nhưng chưa xuất khẩu được, sắp tới lại thu hoạch thêm 10.000 tấn vào cuối tháng 3, dự báo sẽ khó khăn trong tiêu thụ. Gỗ, thủy sản là hai mặt hàng mang lại kim ngạch xuất khẩu lớn cho tỉnh với 500 triệu USD và 300 triệu USD nhưng rõ ràng dịch bệnh COVID -19 đã có những tác động không nhỏ. Từ thực tế đó, ông Châu kiến nghị, Bộ NN&PTNT đề xuất hỗ trợ các doanh nghiệp tham gia trong chuỗi sản xuất được vay vốn với lãi suất ưu đãi, được chậm trả lãi ngân hàng.
Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường khẳng định, những tháng còn lại của năm 2020, toàn ngành nông nghiệp xác định rà soát xây dựng, phát triển các vùng sản xuất đối với sản phẩm xuất khẩu chủ lực, có tín hiệu thị trường thuận lợi; chú trọng yếu tố thị trường, để làm sao người dân bị cách ly cũng vẫn phải có đủ lương thực thực phẩm. "Sau dịch bệnh bao giờ cũng có nhu cầu lương thực, thực phẩm lớn, có thể nói là nhu cầu bùng nổ cần chuẩn bị để có nguồn hàng cung ứng cho thị trường".
Theo Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản, dự kiến đến năm 2030, tốc độ tăng giá hàng nông sản qua chế biến sẽ đạt 7% - 8%/năm; tỷ trọng sản lượng sản phẩm chế biến sâu, có giá trị gia tăng cao của các ngành hàng đạt 30% trở lên; trên 50% cơ sở chế biến các mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực đạt trình độ công nghệ sản xuất tiên tiến.
Ông Nguyễn Quốc Toản, Cục trưởng Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản nhận định: "Diễn biến phức tạp, khó lường của dịch Covid-19 đang tác động tiêu cực đến thương mại nông lâm thủy sản của Việt Nam và Trung Quốc cũng như nhiều thị trường khác. Do vậy, trong thời điểm dịch bệnh đang bùng phát hiện nay, thị trường giao dịch nông sản qua biên giới Việt - Trung bị tắc nghẽn càng cho thấy ngành rau, quả cần phải tái cơ cấu thị trường, mở cửa và đa dạng hóa sản phẩm, tránh rủi ro vì phụ thuộc vào những thị trường nhất định".
Ông Đặng Phúc Nguyên - Tổng thư ký Hiệp hội Rau quả Việt Nam cho rằng, ngành rau quả Việt Nam cần đầu tư công nghệ sản xuất và đẩy mạnh xuất khẩu các sản phẩm chế biến, nhất là nước ép vì quy mô thị trường rất lớn. "Thực tế trình độ kỹ thuật công nghệ chế biến của Việt Nam nhìn chung mới chỉ đạt ở mức trung bình của thế giới, chỉ có một số lĩnh vực công nghệ chế biến đạt mức độ tiên tiến, hiện đại nhưng chưa nhiều. Hiện tỷ lệ nguyên liệu đưa vào chế biến ngành hàng rau quả vẫn còn ở mức thấp, chỉ khoảng 5 - 10%. Đặc biệt, tỷ lệ nông sản chế biến sâu mới chỉ đạt khoảng 7 - 8%", ông Nguyên cho biết.