Chia sẻ với Reatimes, các chuyên gia cho rằng, việc nhanh chóng xây dựng và hoàn thiện cơ sở dữ liệu về đất đai là vô cùng cần thiết, bởi sau đó, là "hàng núi" công việc đang chờ đợi khâu nền tảng này. Tuy nhiên, cũng có không ít lo ngại về chất lượng của dữ liệu đất đai. Bởi muốn quản lý tốt, thì cơ sở dữ liệu phải chuẩn, chứ không phải mang tính hình thức.
Đã chính thức sáp nhập tỉnh thành, việc sớm hoàn thành cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai là rất quan trọng
Ngày 12/6 vừa qua, Quốc hội đã chính thức thông qua Nghị quyết về sáp nhập đơn vị hành chính cấp tỉnh. Cả nước chính thức còn 34 tỉnh, thành, giảm 29 tỉnh so với trước đây. Sau khi sáp nhập, dữ liệu về đất đai của các tỉnh, thành mới sẽ có sự thay đổi đáng kể.
Về vấn đề này, TS. Thái Quỳnh Như, chuyên gia Viện Nghiên cứu Bất động sản Việt Nam (VIRES), nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý đất đai (Tổng cục Quản lý đất đai - Bộ Tài nguyên và Môi trường) cho rằng: “Việc thay đổi mang tính chất lịch sử này sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ hệ thống dữ liệu quốc gia về tự nhiên, văn hóa, xã hội và kinh tế, trong đó có dữ liệu về tài nguyên đất (ranh giới, địa giới hành chính, diện tích…).

Sau khi sáp nhập, dữ liệu về đất đai của các tỉnh, thành mới sẽ có sự thay đổi đáng kể. (Ảnh minh hoạ: Báo Thanh Niên)
Vì vậy, việc Chính phủ yêu cầu Bộ Nông nghiệp và Môi trường phải hoàn thiện cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai và hoàn thành trong tháng 6/2025 là chỉ đạo hết sức đúng đắn và phù hợp với yêu cầu thực tiễn của đất nước. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, trước ngày 1/7/2025 phải cơ bản hoàn thành việc sáp nhập các đơn vị hành chính các cấp và cũng như các bộ phận của hệ thống chính quyền địa phương”.
Cũng theo chuyên gia VIRES, cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai là tập hợp các cơ sở dữ liệu đất đai, trong đó dữ liệu được sắp xếp, tổ chức để truy cập, khai thác, chia sẻ, quản lý và cập nhật thông tin qua phương tiện điện tử (Điều 3, Luật đất đai 2024). Đồng thời tại khoản 4, Điều 166 cũng quy định “Cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu của Bộ, ngành, địa phương được kết nối với cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai để cập nhật, chia sẻ, khai thác, sử dụng thông tin. Việc kết nối liên thông phải đảm bảo hiệu quả, an toàn, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ theo quy định của luật này và quy định của pháp luật khác có liên quan”. Trong giai đoạn vừa qua việc sắp xếp lại tổ chức bộ máy Chính phủ (bộ và các cơ quan ngang bộ) cũng như thực hiện Nghị quyết số 60-NQ/TW ngày 12/4/2025 có nội dung về sát nhập, hợp nhất các đơn vị hành chính cấp tỉnh (34 đơn vị hành chính).
“Việc hoàn thiện xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai sẽ là nền tảng quan trọng, nhằm thực hiện và cung cấp đầy đủ các thông tin về tài nguyên đất của đơn vị hành chính các cấp, sự liên thông về thủ tục hành chính cho người dân và doanh nghiệp theo đúng chỉ đạo của Bộ Chính trị và Ban Bí Thư”, TS. Thái Quỳnh Như nhận định.
Nhìn nhận về những bước tiến trong công tác xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai hiện nay, TS. Thái Thị Quỳnh Như cho hay, Khoản 1, Điều 165, Luật Đất đai 2024 quy định Cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai bao gồm 8 nhóm thành phần sau đây: Cơ sở dữ liệu về văn bản quy phạm pháp luật về đất đai; Cơ sở dữ liệu địa chính; Cơ sở dữ liệu điều tra, đánh giá, bảo vệ, cải tạo, phục hồi đất; Cơ sở dữ liệu quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; Cơ sở dữ liệu giá đất; Cơ sở dữ liệu thống kê, kiểm kê đất đai; Cơ sở dữ liệu về thanh tra, kiểm tra, tiếp công dân, giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai; Cơ sở dữ liệu khác liên quan đến đất đai.
Trong khi đó, báo cáo kết quả xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai của Cục Quản lý đất đai, Bộ Nông nghiệp và Môi trường tính đến thời điểm này cho thấy, nhiều thành phần hiện nay đã xây dựng đều là những thành phần chính của hệ thống dữ liệu quốc gia về đất đai. Qua đó, đảm bảo cung cấp dữ liệu cho toàn ngành cũng như tính liên kết giữa các ngành, lĩnh vực có liên quan từ Trung ương đến địa phương.

Cụ thể, ở cấp Trung ương, các khối dữ liệu quan trọng đã được hoàn thiện và đưa vào vận hành, khai thác sử dụng. Như dữ liệu thống kê - kiểm kê đất đai; quy hoạch - kế hoạch sử dụng đất; giá đất và điều tra, đánh giá đất đai.
Ở cấp huyện, tỷ lệ hoàn thành cơ sở dữ liệu địa chính và thống kê đã đạt con số tương đối cao, với 100% huyện hoàn thành cơ sở dữ liệu thống kê, kiểm kê đất đai, có 71% (495/696) đơn vị hoàn thành cơ sở dữ liệu địa chính. Dữ liệu quy hoạch và giá đất cũng đang tiếp tục được cập nhật.
Đáng chú ý, toàn bộ 63 tỉnh, thành phố đã kết nối dữ liệu đất đai với cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư; gần 50 địa phương đã liên thông thông tin giữa cơ quan Đăng ký đất đai và cơ quan Thuế, mở ra tiền đề quan trọng cho quản trị liên ngành, liên thông.
“Những kết quả đạt được nêu trên đã thể hiện sự nỗ lực, cố gắng tập trung tối đa nguồn nhân lực cũng như trang thiết bị của toàn lĩnh vực đất đai để hoàn thành nhiệm vụ được giao”, TS. Thái Quỳnh Như nhận định.
Quan trọng nhất là chất lượng của cơ sở dữ liệu đất đai
Trong bối cảnh cả nước đang đẩy mạnh chuyển đổi số, việc hoàn thành cơ sở dữ liệu đất đai quốc gia được xem là một trong những nhiệm vụ trọng yếu, phục vụ cho quản lý hiệu quả và phát triển bền vững. Tuy nhiên, theo các chuyên gia, điều quan trọng nhất không chỉ là hoàn thành đúng hạn, mà phải đảm bảo chất lượng thực sự của dữ liệu: đầy đủ, minh bạch và có thể cập nhật theo thời gian thực.
Trả lời cho câu hỏi, liệu công tác xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai có đảm bảo hoàn thành trong tháng 6 như chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, GS.TSKH Đặng Hùng Võ, Chủ tịch Hội Trắc địa - Bản đồ - Viễn thám Việt Nam, nguyên Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường lo ngại, đó là mục tiêu rất khó khăn và cần được xem xét kỹ lưỡng về mức độ hoàn thành.
“Việc hoàn thành ở mức độ nào mới là điều quan trọng. Nếu chỉ đặt mục tiêu hoàn thành một cách chung chung, thì việc kiểm tra và đánh giá kết quả sẽ gặp rất nhiều khó khăn”, ông Đặng Hùng Võ nói.
Một trong những lý do lớn nhất, theo ông Võ, là chúng ta vẫn còn thiếu hệ thống cơ sở dữ liệu đất đai sạch, đầy đủ. Ngay tại TP. Hà Nội, thì cơ sở dữ liệu đất đai vẫn chưa đầy đủ, chứ chưa nói đến các tỉnh miền núi.
Ông Võ cho biết thêm, việc xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai vẫn thủ công, người dân đăng ký đất đai ở những khu vực khác nhau và không được kiểm tra đầy đủ. Một số trường hợp phải tiến hành đo lại để có số liệu chính xác, điều này không chỉ tốn kém mà còn làm chậm tiến độ cập nhật dữ liệu.
Mặc dù chúng ta đã đầu tư rất nhiều tiền để xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai, nhưng một số phần mềm và hệ thống không được cập nhật thường xuyên, khiến cho dữ liệu trở nên lỗi thời và không phản ánh đúng thực tế. Các kỹ thuật cơ bản trong việc xây dựng cơ sở dữ liệu này hiện tại còn thiếu sót và chưa hoàn thiện. Việc cập nhật dữ liệu trong thời gian thực rất kém, dẫn đến tình trạng dữ liệu gần như luôn ở trong trạng thái cũ. Hơn nữa, dữ liệu giao dịch đất đai vẫn thiếu minh bạch thì khó mà có cơ sở dữ liệu chuẩn xác.
Vì vậy, ông Võ nhấn mạnh việc “làm sạch dữ liệu đất đai” và cho rằng, để có được cơ sở dữ liệu đất đai chính xác, cần phải có một hệ thống cập nhật thường xuyên và kịp thời.
“Chúng ta phải làm nhanh, vì cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai là nền tảng của rất nhiều công việc khác. Nhưng cũng không nên vội vàng, mà phải đảm bảo dữ liệu thu thập được là chính xác và cập nhật kịp thời. Đồng thời, yêu cầu đối với mọi cơ sở dữ liệu là phải có khả năng cập nhật trong thời gian thực, tức là khi có thay đổi trong thực tế, dữ liệu phải được cập nhật ngay lập tức. Chỉ khi đó, cơ sở dữ liệu đất đai mới có thể phản ánh chính xác tình trạng thực tế và phục vụ tốt cho việc quản lý và phát triển đất đai”, GS.TSKH Đặng Hùng Võ nêu quan điểm.

Việc xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai không chỉ dừng lại ở việc số hóa hồ sơ, mà phải tiến tới một hệ thống quản lý đồng bộ, liên thông và có khả năng cập nhật theo thay đổi thực tế. (Ảnh minh hoạ)
TS. Thái Quỳnh Như cũng đồng tình, ngoài việc coi trọng tốc độ triển khai, thì chất lượng của cơ sở dữ liệu đất đai cũng rất quan trọng. Song, hiện việc xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai còn gặp những khó khăn, thách thức lớn.
Trước hết, là những khó khăn khách quan liên quan đến việc thay đổi tổ chức của các cơ quan của Chính phủ, cũng như một số các đơn vị trực thuộc trong thời gian vừa qua. Từ đó, dẫn đến tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, cơ sở vật chất và nguồn cán bộ cũng có những thay đổi hoặc xáo trộn nhất định.
Khó khăn mang tính chủ quan, là khối lượng hồ sơ lớn, tồn đọng qua thời gian dài. Trang thiết bị chưa được đầu tư, nâng cấp một cách kịp thời. Ngoài ra trình độ về công nghệ thông tin của một số cán bộ chuyên môn còn nhiều hạn chế, cần được nâng cao.
Chuyên gia VIRES cũng cho rằng, chuyển đổi số trong việc xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai đóng vai trò rất quan trọng. Có thể hiểu một các cơ bản, chuyển đổi số là quá trình thay đổi toàn diện và tổng thể của các cá nhân, tổ chức về cách làm việc, cách sống và phương thức sản xuất dựa trên nền tảng công nghệ số. Đất đai luôn được coi là nền tảng, là đầu vào, là cơ sở của tất cả các lĩnh vực trong quá trình phát triển kinh tế. Thông tin về đất đai được sử dụng trong mọi hoạt động của đời sống xã hội. Chính vì vậy, xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai là tạo sự liên thông và kết nối của toàn bộ nền kinh tế.
“Chuyển đổi số là sự chuyển đổi từ một nền hành chính giấy tờ sang nền hành chính số. Trong lĩnh vực đất đai chính là việc triển khai tất cả các dịch vụ về đất đai liên quan đến tổ chức và người dân sử dụng đất theo hướng đồng bộ, liên kết, thuận tiện, đơn giản hóa các thủ tục, đảm bảo nhanh chóng, chính xác và minh bạch.
Tuy nhiên, việc xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai không chỉ dừng lại ở việc số hóa hồ sơ, mà phải tiến tới một hệ thống quản lý đồng bộ, liên thông và có khả năng cập nhật theo thay đổi thực tế. Điều này đòi hỏi sự thay đổi toàn diện về tư duy quản trị, quy trình nghiệp vụ, cũng như nền tảng kỹ thuật. Nhằm đảm bảo dữ liệu đất đai không những đầy đủ, chính xác mà còn minh bạch và phục vụ hiệu quả cho người dân, doanh nghiệp và cơ quan quản lý”, chuyên gia VIRES chia sẻ.
Nguồn: https://reatimes.vn/ca-nuoc-chinh-thuc-con-34-tinh-thanh-som-hoan-thien-du-lieu-dat-dai-la-can-thiet-nhung-khong-nen-voi-vang-202250616164351392.htm