Rào cản cho doanh nghiệp
Để hạn chế việc chuyển thu nhập của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đến một doanh nghiệp khác (trong cùng Tập đoàn đa quốc gia) tại vùng lãnh thổ/quốc gia có thuế suất thuế Thu nhập thấp hơn so với Việt Nam để tối đa hóa lợi nhuận và tối thiểu hóa nghĩa vụ thuế phải nộp. Nghị định 20/2017/NĐ-CP (gọi tắt là Nghị định 20) được ban hành năm 2017. Nghị định này được tham khảo khuyến nghị của Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) chống xói mòn về thuế, chống chuyển giá.
Nhà nước quan tâm và nỗ lực kiểm soát vấn đề thuế của các giao dịch liên kết nhằm tránh thất thu thuế. Đây là lần đầu tiên, nguyên tắc này được khẳng định bằng văn bản quy phạm pháp luật khi xem xét đến “giao dịch đáng ngờ”. Nghị định 20 là sự đồng bộ giữa các văn bản pháp luật Việt Nam trong nhiều lĩnh vực khác nhau, và là quan điểm chung được thừa nhận ở hầu hết các quốc gia trên thế giới.
Qua 2 năm thực hiện, ngành Thuế đã đạt được kết quả quả bước đầu quan trọng. Cụ thể, năm 2017, có 11,1 nghìn doanh nghiệp kê khai giao dịch liên kết. Năm 2018, con số này đã lên tới hơn 11,9 nghìn doanh nghiệp, trong đó, tỷ trọng doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 64% và còn lại là doanh nghiệp trong nước”, Lãnh đạo Bộ Tài chính thông tin. Đáng chú ý, về kết quả thu thuế, thông qua Nghị định 20, từ năm 2017 đến tháng 11/2019, cơ quan Thuế đã xử lý liên quan đến số thu là 11.089 tỷ đồng. Sau khi áp dụng Nghị định này, đến tháng 5/2019, cơ quan Thuế đã thanh tra 758 doanh nghiệp có giao dịch liên kết. Phạt và truy thu hơn 1.900 tỷ đồng, giảm lỗ hơn 8.500 tỷ đồng.
Mục đích là vậy, song theo đánh giá của các chuyên gia thì đối tượng bị ảnh hưởng nặng nề nhất từ khoản 3 điều 8 của Nghị định 20 là các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt những doanh nghiệp đang đầu tư vào những ngành trọng điểm cần số vốn rất lớn. Việc khống chế chi phí lãi vay được trừ 20% EBITDA (tổng lợi nhuận trước thuế cộng với chi phí lãi vay và khấu hao) đang bị đánh giá là chưa phù hợp.
Theo ông Nguyễn Việt Anh, chuyên gia thuế cao cấp của Ngân hàng Thế giới, vẫn có một số trường hợp gặp khó khăn khi áp dụng quy định này. Đơn cử như các doanh nghiệp hoạt động theo hình thức tập đoàn, công ty mẹ con có phát sinh việc cho vay trong nội bộ tập đoàn thì quy định này là cứng nhắc vì chi phí lãi vay được tính trên cơ sở “gộp”. Hay đối với các doanh nghiệp khởi nghiệp và các dự án phát sinh lỗ trong những năm đầu nhưng tổng thể là có lợi nhuận có thể sẽ bị ảnh hưởng tiêu cực, vì họ không được khấu trừ chi phí lãi vay trong giai đoạn phát sinh lỗ.
Tuy nhiên, theo Lãnh đạo Bộ Tài chính, qua phản ánh của 1 số doanh nghiệp cũng như thực tiễn hoạt động, nội dung Nghị định 20 vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau.
“Qua tổng hợp, đánh giá có thể thấy, những vướng mắc cụ thể như quy định về khống chế 20% trên mức chi phí lãi vay đối với giao dịch liên kết đã tác động tới hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, khối OECD cũng khuyến cáo mức khống chế này từ 10-30% nên khi xây dựng Nghị định 20, ngay cả các chuyên gia của các tổ chức quốc tế như Ngân hàng Thế giới và các chuyên gia trong nước cũng đề xuất ở mức 20%. Tuy nhiên, về lâu dài, phải đánh giá lại tỷ lệ này cho phù hợp với điều kiện tình hình thực tế của doanh nghiệp Việt Nam”.
Bên cạnh đó, cũng theo lãnh đạo Bộ Tài chính, có ý kiến cho rằng chỉ nên áp dụng chi phí về lãi vay liên kết với các trường hợp có hoạt động về cho vay lẫn nhau chứ không nên áp dụng tổng thể về các đối tượng có giao dịch kiên kết. Về vấn đề này, theo khuyến cáo của OECD, phạm vi điều chỉnh của Nghị định này phải rất rộng, tới tất cả các giao dịch có liên kết. Đây là nội dung phải cùng nhau đánh giá lại cho phù hợp.
Liên quan đến hoạt động của ngành nghề lĩnh vực cụ thể như: kinh doanh thu từ lãi tiền gửi cũng như thu lãi tiền vay đối với dịch vụ tài chính ngân hàng; hay hoạt động của các doanh nghiệp trung chuyển vốn; hoạt động vay vốn ODA về cho vay lại, hoạt động kí quỹ trong các tập đoàn, tổng công ty… đều liên quan đến giao dịch liên kết, cần đánh giá kĩ.
Như vậy, có thể thấy rằng tỷ trọng doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 64%, còn lại là 36% doanh nghiệp trong nước bị ảnh hưởng. Số tiền thu được sau khi áp dụng Nghị định 20 là 11.089 tỷ đồng. Vậy, tỷ lệ 36% doanh nghiệp trong nước bị ảnh hưởng là bao nhiêu tiền? Trong tổng số 8500 tỷ đồng giảm lỗ thì doanh nghiệp trong nước bị giảm bao nhiêu tiền?
Theo Tổng cục Thống kê, doanh nghiệp tư nhân trong nước, bình quân tỷ lệ nợ phải trả trên vốn chủ sở hữu vào khoảng 3/1, tức 1 đồng vốn chủ sở hữu, còn 3 đồng phải đi vay. Tính toán dựa trên số liệu này cũng cho thấy tỷ suất lợi nhuận trên vốn của khu vực doanh nghiệp tư nhân trong nước chỉ khoảng 1,12%.
Như vậy có thể thấy Nghị định 20 khiến khối doanh nghiệp tư nhân trong nước bị tăng lợi nhuận ảo, dẫn đến phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp cao hơn và lợi nhuận thật của doanh nghiệp bị giảm đáng kể, không ít doanh nghiệp bị lỗ nặng.
Nghị định 20 ra đời năm 2017, tức là hơn hai năm qua nó đang trở thành rào cản và gây khó khăn cho khối doanh nghiệp tư nhân trong nước. Luật Quản lý thuế quy định, thời gian tối đa cơ quan thuế xuống doanh nghiệp quyết toán thuế là năm năm, và theo Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp thì khoản lãi vay không bị trừ ra khỏi chi phí hợp lý, do vậy trước khi Nghị định 20 ra đời, kế toán của doanh nghiệp mặc nhiên hạch toán khoản lãi vay này vào chi phí hợp lý.
Nay, nhiều khả năng các khoản lãi được hạch toán vào chi phí trước khi có Nghị định 20 sẽ bị cơ quan thuế xuất toán, khi đó chủ doanh nghiệp mới biết lãi thật của mình không còn do bị truy thu thuế theo Nghị định này.
Hồi tố sẽ tránh được nguy cơ thuế chồng thuế
Theo TS. Nguyễn Trí Hiếu, Cố vấn HĐQT Ngân hàng TMCP Quốc Dân cho hay Nghị định 20 áp dụng cho toàn bộ doanh nghiệp là rào cản rất lớn cho các công ty trong nước và khiến họ càng thêm khó khăn. Đặc biệt khi dịch bệnh Covid-19 đang bủa vây khiến nhiều công ty sống dở chết dở nếu bị truy thu thuế hoặc xuất toán hàng trăm tỉ đồng sẽ là một hung tin đối với doanh nghiệp.
“Trong bối cảnh doanh nghiệp đang gặp khó khăn, Chính phủ cũng đưa nhiều giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp, tôi cho rằng Bộ Tài chính nếu thay đổi nâng trần chi phí lãi vay từ 20% lên 30% thì phải áp dụng hồi tố luôn từ khi Nghị định 20 có hiệu lực là trong hai năm 2017 - 2018. Phương pháp có thể thực hiện với những doanh nghiệp đã bị thu thuế là cho khấu trừ dần vào tiền thuế phải nộp hằng năm. Nhưng về dài hạn, cần xem xét thay đổi và chỉ nên áp dụng quy định này đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài mà không phải áp dụng chung cho tất cả doanh nghiệp”, TS Nguyễn Trí Hiếu nói.
Ông Nguyễn Việt Anh, chuyên gia Thuế cao cấp của Ngân hàng Thế giới, để tháo gỡ những khó khăn này, Chính phủ, Bộ Tài chính có thể đưa ra quy định cho phép các doanh nghiệp được chuyển phần chi phí lãi vay chưa được khấu trừ vào các năm tiếp theo khi doanh nghiệp có khả năng khấu trừ, tương tự như quy định chuyển lỗ hiện nay. Chi phí lãi vay có thể tính trên cơ sở “thuần” để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp cho vay trong nội bộ tập đoàn.
Đối với những doanh nghiệp thực sự vay nợ bên thứ ba nhiều, có thể cho phép áp dụng “tỷ lệ tập đoàn” thay cho hạn chế theo EBITDA ở mức 20%. Theo đó, nếu tập đoàn có doanh nghiệp thành viên trả chi phí lãi vay cho bên không liên kết vượt trên mức 20% của EBITDA của tập đoàn, doanh nghiệp đó có thể áp dụng tỷ lệ cao hơn để xác định khoản chi phí lãi vay được phép khấu trừ trong việc tính toán nghĩa vụ thuế. Cần nhấn mạnh các giải pháp này đều phù hợp với thông lệ quốc tế nên nếu những thay đổi này được áp dụng sẽ giúp giải quyết những vướng mắc hợp lý của doanh nghiệp, trong khi vẫn duy trì được bản chất của quy định hạn chế lãi vay trong việc giúp Việt Nam bảo vệ cơ sở thuế quan trọng của mình.
Một số chuyên gia cho rằng sửa trần lãi vay 30% thì cần áp dụng tính hồi tố về năm 2017 khi ban hành Nghị định này vì riêng tiền thuế 2017 và 2018 cũng khiến doanh nghiệp "sống dở chết dở", hoặc từ lãi chuyển sang lỗ. Phương pháp có thể cho khấu trừ dần vào tiền thuế phải nộp hàng năm.
Việc "hồi tố" theo các doanh nghiệp sẽ tránh được nguy cơ thuế chồng thuế. Bởi theo Nghị định 20, bên cho vay phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp đối với thu nhập từ lãi tiền vay, trong khi bên đi vay cũng phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp đối với chi phí tiền vay vượt mức khống chế.
Ông Nguyễn Việt Anh, chuyên gia Thuế cao cấp của Ngân hàng Thế giới đề xuất chỉ nên đánh thuế dựa trên phần chi phí lãi vay thuần (chi phí lãi vay trừ đi thu nhập từ lãi tiền gửi, lãi cho vay) là phù hợp với thông lệ quốc tế.
Chia sẻ về định hướng sửa đổi Nghị định 20, Lãnh đạo Bộ Tài chính cho biết, trên cơ sở Luật Quản lý thuế mới, Bộ Tài chính sẽ báo cáo Chính phủ có sửa đổi, bổ sung tổng thể về Nghị định 20, trong đó có cả quy định rõ hơn về phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng cũng như quy định cụ thể về áp dụng tỷ lệ khống chế lãi vay thuần sau khi trừ đi doanh thu và tiền gửi, tiền vay. Đồng thời, Bộ Tài chính sẽ nghiên cứu tỷ lệ khống chế lãi vay cho phù hợp, cân nhắc con số 25 - 30% để phù hợp hơn với thực tiễn Việt Nam.
Tuy nhiên, tại dự thảo sửa đổi mới đây của Bộ Tài chính, nội dung sửa chưa đáp ứng hết được vướng mắc trong cuộc sống và nguyên tắc áp dụng về thuế. Bởi việc tập trung tỷ lệ khống chế lãi vay EBITDA đầu tiên là khống chế lãi vay, qua đó, mới thực hiện được mục tiêu chống chuyển giá.
Tuy nhiên, khi thực hiện đối với doanh nghiệp trên cùng một vùng lãnh thổ, quốc gia có cùng mặt bằng thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp hoặc doanh nghiệp liên kết có thuế suất cao hơn thì điều này là không phù hợp. Bởi trong cùng một vùng quốc gia, lãnh thổ, thì thuế suất thuế thu nhập của người nộp thuế so với thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp có giao dịch liên kết nhỏ hơn hoặc bằng thì không thể trốn thuế ở người nộp thuế được. Như vậy, đạt được mục tiêu của Nghị định 20 đặt ra là chống xói mòn về thuế, chống chuyển giá.
Nếu khống chế một tỷ lệ chi phí lãi vay 20% hoặc 30%, thì bất kỳ tỷ lệ nào vượt lên đều bị đánh thuế hai lần, lần thứ nhất từ người nộp thuế, do không được khấu trừ chi phí hợp lý, nên phải chịu thuế, lần thứ hai là được nhập vào doanh thu của doanh nghiệp có giao dịch liên kết. Do đó, nếu khống chế tỷ lệ lãi vay của đối tượng nộp thuế với doanh nghiệp có giao dịch liên kết ở trong cùng một quốc gia, lãnh thổ, mà mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp của đối tượng nộp thuế nhỏ hơn hoặc bằng doanh nghiệp giao dịch liên kết là không phù hợp, là vi phạm nguyên tắc tránh đánh thuế hai lần.
Vì vậy, phải bổ sung vào điểm a khoản 2 Điều 8 phần loại trừ chi phí.
“2. Giao dịch cung cấp dịch vụ giữa các bên liên kết:
a) Trừ các khoản chi quy định tại điểm b khoản này, người nộp thuế được trừ các khoản chi phí dịch vụ vào chi phí tính thuế trong kỳ nếu đáp ứng một trong đủ các điều kiện như sau:
- Dịch vụ được cung cấp có giá trị thương mại, tài chính, kinh tế và phục vụ trực tiếp cho hoạt động sản xuất kinh doanh của người nộp thuế; dịch vụ từ các bên liên kết chỉ được xác định đã cung cấp trong điều kiện hoàn cảnh tương tự các bên độc lập chi trả cho các dịch vụ này; phí dịch vụ được thanh toán trên cơ sở nguyên tắc giao dịch độc lập và phương pháp tính giá giao dịch liên kết hoặc phân bổ mức phí dịch vụ giữa các bên liên kết phải được áp dụng thống nhất trong toàn tập đoàn đối với loại hình dịch vụ tương tự và người nộp thuế phải cung cấp hợp đồng, chứng từ, hóa đơn và thông tin về phương pháp tính, yếu tố phân bổ và chính sách giá của tập đoàn đối với dịch vụ được cung cấp.
- Trong cùng một quốc gia, lãnh thổ, mà mức thuế suất thuế thu nhập của đối tượng nộp thuế nhỏ hơn hoặc bằng doanh nghiệp giao dịch liên kết.”
Đối với các trường hợp đã đóng thuế thì cần phải áp dụng cho khấu trừ thuế thu nhập những khoản đã đóng.
Điều này được chuyển thành điều khoản chuyển tiếp của Nghị định sửa đổi Nghị định 20. Như vậy, không áp dụng nguyên tắc hồi tố, nhưng vẫn đảm bảo công bằng đối với những người đã tuân thủ pháp luật, đã nộp thuế.