Trường hợp đặc thù như vùng nước ngập mặn, vùng ven biển, vùng có điều kiện sản xuất nước khó khăn, chi phí sản xuất và cung ứng nước sạch sinh hoạt cao hơn mức giá tối đa của khung giá do Bộ Tài chính ban hành, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương căn cứ vào tình hình thực tế để quyết định giá tiêu thụ nước sạch sinh hoạt cho phù hợp.

Dự thảo nêu rõ Nguyên tắc xác định giá bán nước sạch như sau: Giá bán nước sạch phải được tính đúng, tính đủ các yếu tố chi phí sản xuất hợp lý, hợp lệ, giá thành toàn bộ trong quá trình sản xuất, phân phối, tiêu thụ (bao gồm cả chi phí duy trì đấu nối) để các đơn vị cấp nước duy trì và phát triển trên cơ sở các quy chuẩn, tiêu chuẩn, định mức kinh tế kỹ thuật được cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật công bố hoặc ban hành và lợi nhuận định mức hợp lý của khối lượng nước thương phẩm do các tổ chức, cá nhân thực hiện một phần hoặc thực hiện tất cả các hoạt động khai thác, sản xuất, truyền dẫn, bán buôn và bán lẻ nước sạch theo quy định của Quy chế tính giá do Nhà nước ban hành và hướng dẫn tại Thông tư này.

Sửa khung giá nước sạch, đảm bảo quyền lợi người dân

Các đơn vị cấp nước bán lẻ nước sạch cho cả mục đích sinh hoạt và mục đích khác ngoài sinh hoạt, căn cứ giá nước sạch cho sinh hoạt do Ủy ban nhân dân tỉnh quy định, tự quyết định giá nước sạch cho mục đích ngoài sinh hoạt đảm bảo cơ chế bù giá giữa các nhóm khách hàng có mục đích sử dụng khác nhau và hiệu quả sản xuất, kinh doanh.

Giá bán nước sạch của đơn vị cấp nước cho mục đích sinh hoạt hoặc cấp nước đồng thời cho mục đích sinh hoạt và mục đích khác ngoài sinh hoạt được xem xét điều chỉnh tối đa một lần một năm, khi các yếu tố chi phí biến động ảnh hưởng đến phương án giá nước. Giá nước sạch của đơn vị chỉ cấp nước cho mục đích khác ngoài sinh hoạt do đơn vị cấp nước quyết định việc điều chỉnh trên cơ sở thỏa thuận với khách hàng sử dụng nước.

Theo Pháp luật xã hội