Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) vừa có văn bản kiến nghị gửi Bộ Tài chính về dự thảo Nghị định quy định về quản lý hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu giao dịch qua thương mại điện tử.
Theo VCCI, dự thảo đặt ra giới hạn miễn giấy phép, điều kiện, kiểm tra chuyên ngành, miễn thuế nhập khẩu với hàng hoá giao dịch qua thương mại điện tử là 01 đơn/ngày và không quá 4 đơn/tháng và quản lý theo người mua tại Việt Nam là chưa hợp lý.
Phân tích rõ hơn về điều này, VCCI cho biết: Cách thiết kế giới hạn theo đơn vị ngày, tháng rất khó áp dụng và thiếu tính khả thi.
Theo quy định tại Điều 37 Nghị định 52/2013/NĐ-CP ngày 16/5/2013 về thương mại điện tử, sàn thương mại điện tử có trách nhiệm cung cấp thông tin về việc đơn hàng có được miễn kiểm tra chuyên ngành hay không cho người mua trước khi mua hàng. Việc này sẽ yêu cầu một cơ chế liên thông thông tin giữa tất cả các sàn.
Cơ chế này sẽ rất phức tạp do đặc thù của hoạt động mua sắm thương mại điện tử do người tiêu dùng thường sử dụng nhiều nền tảng sàn thương mại điện tử, vì vậy, hệ thống phải kết nối thông tin giữa tất cả các sàn thương mại điện tử.
Bên cạnh đó, do các chương trình khuyến mại lớn và người mua có thể lựa chọn sẵn sản phẩm cần mua, trong thời điểm khuyến mại, người mua có thể nhanh chóng đặt rất nhiều đơn hàng cùng lúc.
Việc này yêu cầu Hệ thống truy vấn phải cực kỳ nhanh và cập nhật liên tục để trả kết quả chính xác đến từng giây.
Cũng theo VCCI, cách quản lý theo người mua cũng chưa phù hợp với giao dịch qua biên giới qua thương mại điện tử do những đặc điểm khác biệt của hình thức này so với việc giao dịch qua biên giới truyền thống.
Cụ thể, đối với giao dịch qua biên giới truyền thống, các đơn vị nhập khẩu ở Việt Nam thường là các đơn vị nhập khẩu thường xuyên nên có tính chuyên nghiệp và có thể xác định được một cách chính xác.
Trong khi đó, các thông tin về người bán ở nước ngoài thường khó kiểm chứng và thực tế có thể dùng nhiều cách thức để thay đổi từ người bán này sang người bán khác. Do vậy, cơ quan nhà nước thường quản lý hoạt động nhập khẩu theo người mua là đơn vị nhập khẩu.
Nhưng với giao dịch thương mại điện tử qua biên giới hoàn toàn khác.
Hoạt động giao dịch qua sàn thương mại điện tử kiểm soát được thông tin từ cả hai phía, cả người mua và người bán và đặc biệt là thông tin người bán được kiểm soát chặt chẽ hơn rất nhiều theo các quy định tại Nghị định 52.
Hơn nữa, người mua trên sàn thường có xu hướng dựa vào các tiêu chí như đánh giá, số lượng mua hàng,… để lựa chọn người bán. Do đó, các đơn hàng thường sẽ tập trung chủ yếu vào một số lượng người bán nhất định. Các thông tin về những người bán như tên gian hàng, thông tin người bán, thông tin gian hàng sẽ đầy đủ và khó thay đổi.
Do vậy, “thay vì quản lý theo người mua, cơ chế kiểm soát hạn ngạch có thể áp dụng cho người bán. Theo đó, những người bán có số lượng đơn hàng trong năm thấp có thể được miễn kiểm tra chuyên ngành, tương tự như cách thức quản lý với hàng nhập khẩu qua chuyển phát nhanh. Những người bán có số lượng đơn hàng lớn có thể áp dụng việc kiểm tra chuyên ngành”, VCCI kiến nghị.
Từ những phân tích trên, VCCI đề nghị cơ quan soạn thảo cân nhắc sửa đổi quy định theo hướng áp dụng giới hạn theo năm hoặc theo từng sàn thương mại điện tử, hoặc xây dựng cơ chế quản lý theo người bán.
Theo đánh giá của Hiệp hội thương mại điện tử Việt Nam tại báo cáo về Chỉ số thương mại điện tử Việt Nam (EBI) trong 5 năm gần đây tốc độ tăng trưởng trung bình năm của Việt Nam từ 25-30%. Nếu Việt Nam vẫn duy trì mức độ tăng trưởng này, quy mô thị trường thương mại điện tử Việt Nam năm 2025 đứng thứ ba Đông Nam Á, sau Indonesia và Thái Lan.
Việc mua bán hàng hóa qua thương mại điện tử có xu hướng phát triển nhanh nên số lượng các lô hàng nhỏ cũng tăng nhanh. Tuy nhiên, dù có những bước phát triển bùng nổ nhưng hiện chưa có quy định riêng về chính sách thuế cho hàng hóa nhập khẩu giao dịch qua thương mại điện tử.
Nguồn: https://congluan.vn/vcci-nhieu-quy-dinh-moi-ve-danh-thue-nhap-khau-thong-qua-thuong-mai-dien-tu-chua-hop-ly-post173311.html