Trong đó điện thoại và linh kiện có giá trị xuất khẩu lớn nhất đạt 51,8 tỷ USD, chiếm 19,7% tổng kim ngạch xuất khẩu, tăng 5,3% so với năm trước; điện tử, máy tính và linh kiện đạt 35,6 tỷ USD, tăng 20,4%;
Hàng dệt may đạt 32,6 tỷ USD, tăng 6,9%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 18,3 tỷ USD, tăng 11,9%; giày dép đạt 18,3 tỷ USD, tăng 12,7%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 10,5 tỷ USD, tăng 18,2%.
Nhìn chung, tỷ trọng xuất khẩu của một số mặt hàng chủ lực vẫn thuộc về khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, trong đó: Điện thoại và linh kiện chiếm 95%; điện tử, máy tính và linh kiện chiếm 82,3%; giày dép chiếm 76,5%; hàng dệt may chiếm 58,9%.
Do giá xuất khẩu bình quân của nhiều mặt hàng nông sản giảm so với năm trước, nên kim ngạch xuất khẩu hầu hết các mặt hàng nông, thủy sản năm nay đều giảm: Thủy sản đạt 8,6 tỷ USD, giảm 2,4%; rau quả đạt 3,8 tỷ USD, giảm 1,1%; hạt điều đạt 3,3 tỷ USD, giảm 2,6% (lượng tăng 21,5%);
Cà phê đạt 2,8 tỷ USD, giảm 21,2% (lượng giảm 13,9%); gạo đạt 2,8 tỷ USD, giảm 9,9% (lượng tăng 2,5%); hạt tiêu đạt 722 triệu USD, giảm 4,9% (lượng tăng 23,4%). Riêng cao su đạt 2,3 tỷ USD, tăng 10% (lượng tăng 8,9%); chè đạt 236 triệu USD, tăng 8,8% (lượng tăng 8,1%).
Về cơ cấu nhóm hàng xuất khẩu năm 2019, nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng sản ước tính đạt 133 tỷ USD, tăng 8,7% so với năm trước, chiếm 50,5% tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu (tăng 0,3 điểm phần trăm so với năm 2018).
Nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp ước tính đạt 101 tỷ USD, tăng 11,3% và chiếm 38,3% (tăng 1 điểm phần trăm). Nhóm hàng nông, lâm sản đạt 20,9 tỷ USD, giảm 4,1% và chiếm 7,9% (giảm 1 điểm phần trăm). Nhóm hàng thủy sản đạt 8,6 tỷ USD, giảm 2,4% và chiếm 3,3% (giảm 0,3 điểm phần trăm).