Áp lực từ cung tiền, vòng quay tiền dù không lớn song phức tạp hơn
Nhận định về nguy cơ lạm phát, nghiên cứu này cho rằng, nguy cơ rủi ro lạm phát vẫn tiềm ẩn và phức tạp hơn bởi 2 lý do chính. Một là, cung tiền tăng vừa phải nhưng nếu hiệu quả sử dụng vốn thấp sẽ tạo áp lực dài hạn lên lạm phát, nhất là trong bối cảnh quy mô lượng cung tiền (M2) so với GDP của Việt Nam so với các nước là tương đối lớn (ở mức 138%GDP, cao hơn bình quân khu vực ASEAN), quy mô tín dụng Việt Nam cuối năm 2019 tương đương 138% GDP (so với bình quân ASEAN-9 là 86%GDP, theo WB).
Trong khi đó, hệ số ICOR (chỉ số hiệu quả sử dụng vốn) của Việt Nam giai đoạn 2016 - 2020 ở mức 6,13 lần, cao hơn nhiều so với khu vực và tiêu chuẩn World Bank đối với nước đang phát triển (ICOR chỉ 3 - 4 lần).
Hai là, vòng quay tiền chậm lại song 'đường đi' của tiền lại phức tạp hơn. Vòng quay tiền chậm lại trong nền kinh tế thực song 'dòng tiền rẻ' có cơ hội chảy vào bất động sản, chứng khoán, tiền kỹ thuật số… và trở thành một trong những nguyên nhân gây ra cơn sốt, tăng nóng của các thị trường này thời gian qua.
Đây cũng là hiện tượng chung của nhiều nước trên thế giới, vòng quay tiền chậm lại trong nền kinh tế thực song tiền lại đang được luân chuyển khá nhanh trong các kênh đầu tư rủi ro.
Với thị trường bất động sản, năm 2020 tăng 20 - 36% so với năm 2019 (theo JLL Việt Nam) cao hơn so với mức tăng trung bình của thế giới (5,6%), giá đất nền có hiện tượng sốt nóng tại nhiều địa phương có thông tin quy hoạch, phát triển hạ tầng mới hay sân bay, cầu cảng… như Bắc Giang, Thanh Hóa (+50 - 70%); Hải Phòng (+60 - 70%). Cơ quan quản lý đã nhận diện và có nhiều động thái vào cuộc nên cơn sốt bất động sản đất nền đã tạm lắng xuống.
Với thị trường chứng khoán, có 4 nguyên nhân chính khiến giá chứng khoán thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng tăng mạnh năm qua và từ đầu năm 2021 đến nay.
Đó là dòng vốn rẻ từ các gói hỗ trợ của Chính phủ, từ lãi suất cho vay thấp và vai trò hàn thử biểu nền kinh tế của thị trường chứng khoán đang bị lung lay khi mà mối quan hệ giữa thị trường này với nền kinh tế thực trở nên lỏng lẻo (năm 2020 kinh tế thế giới suy thoái song giá chứng khoán vẫn tăng khá mạnh).
Bên cạnh đó, hiện tượng phân tán giá chứng khoán rất rõ nét (một số nhóm trong các lĩnh vực công nghệ thông tin, thương mại điện tử, sắt thép… tăng mạnh, trong khi giá chứng khoán nhiều lĩnh vực khác như vận tải, du lịch, giáo dục - đào tạo…giảm mạnh).
Cùng với đó, tâm lý đám đông và đòn bẩy tài chính luôn hiện hữu, nhất là đối với thị trường chứng khoán Việt Nam. Theo số liệu từ Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước, tính đến cuối năm 2020, tổng dư nợ giao dịch ký quỹ tại các công ty chứng khoán là 80,9 nghìn tỷ đồng, tăng 26 nghìn tỷ đồng, tương đương tăng 48% so cuối năm 2019.
Đến cuối quý I/2021, dư nợ giao dịch ký quỹ đạt 101,4 nghìn tỷ đồng, tăng 53,6 nghìn tỷ đồng, tương đương với tăng 53% so cùng kỳ năm 2020. Tuy nhiên, cần lưu ý thêm rằng những yếu tố này thiếu tính bền vững. Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước cũng đã có những động thái cảnh báo và kiểm soát dòng tiền mạnh hơn trong thời gian gần đây.
4 yếu tố giảm áp lực lạm phát của Việt Nam
Theo nhóm nghiên cứu, hiện nay có 4 yếu tố giảm áp lực lạm phát của. Thứ nhất, theo nhóm này, nền tảng vĩ mô, tỷ giá cơ bản ổn định đến thời điểm hiện nay, các cân đối lớn của Việt Nam (nợ công, thâm hụt ngân sách, cán cân thương mại...) ở trạng thái tốt hơn so với giai đoạn trước, cộng với đà kiểm soát lạm phát dưới 4% trong 5 năm qua, quan hệ cung - cầu ngoại tệ khá ổn, thị trường vàng được kiểm soát tốt hơn…; tất cả những yếu tố này cộng với chính sách điều hành tỷ giá ngày càng linh hoạt, chủ động đã và đang giúp tỷ giá cơ bản ổn định. Từ đầu năm đến nay, VND tăng giá nhẹ (0,22% so với USD) và chúng tôi dự báo cả năm tỷ giá có thể tăng khoảng 0,5 - 1%.
Thứ hai, việc phối hợp chính sách, nhất là giữa chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa và giá cả ngày càng ăn nhịp hơn, thể hiện rõ nét là phối hợp trong việc phát hành trái phiếu chính phủ thời gian qua.
Thứ ba, cũng theo nhóm nghiên cứu, cơ cấu rổ hàng hóa tính CPI ngày càng tiệm cận quốc tế (xu hướng giảm tỷ trọng nhóm hàng thiết yếu lương thực, thực phẩm) giúp mặt bằng lạm phát dài hạn ổn định hơn (sau giai đoạn lạm phát cao 2008 - 2011) và hầu như không xảy ra cú sốc giá đột biến giá. Chẳng hạn tình trạng giá thịt lợn tăng cao đã được kiểm soát, giảm dần từ cuối năm 2020; một số đợt sốt giá ngắn tại một vào các thời điểm dịch COVID-19 bùng phát song đã và sẽ được kiểm soát kịp thời.
Bốn là, sức cầu còn yếu và vòng quay tiền còn chậm như đã phân tích ở trên.Theo đó, 'CPI bình quân 6 tháng đầu năm của Việt Nam được dự báo sẽ tăng 1,85 - 2% so với cùng kỳ 2020 và CPI bình quân cả năm 2021 tăng khoảng 3,4 - 3,6% so với năm 2020 (thấp hơn so với dự báo của WB, IMF…), nhưng cao hơn so với mức dự báo tăng 3% của Citi Research', TS. Cấn Văn Lực thông tin.
Nguồn: https://congluan.vn/cpi-binh-quan-6-thang-dau-nam-cua-viet-nam-se-tang-185-2-so-voi-cung-ky-2020-post132936.html