Thời gian có hiệu lực của hồ sơ dự thầu là số ngày được quy định trong hồ sơ mời thầu và được tính kể từ ngày có thời điểm đóng thầu đến ngày cuối cùng có hiệu lực theo quy định trong hồ sơ mời thầu.
Ông Nguyễn Chí Danh (Ninh Thuận) đề nghị cơ quan chức năng hướng dẫn tình huống như sau:
- Hồ sơ mời thầu (HSMT) yêu cầu hiệu lực của hồ sơ dự thầu (HSDT) là 90 ngày kể từ ngày có thời điểm đóng thầu (thời điểm đóng thầu 15 giờ 00 phút ngày 6/12/2018). Hiệu lực của bảo đảm dự thầu là 120 ngày kể từ ngày đóng thầu.
- HSDT của nhà thầu có bảo đảm dự thầu có hiệu lực 120 ngày kể từ 15 giờ 30 phút ngày 6/12/2018.
- Đơn vị tư vấn đầu thầu đánh giá HSDT của nhà thầu không đáp ứng tư cách hợp lệ do thời gian hiệu lực của bảo đảm dự thầu không đáp ứng yêu cầu của HSMT (Thời gian hiệu lực của bảo đảm dự thầu phải là 120 ngày kể từ 15 giờ 00 phút ngày 6/12/2018).
Ông Danh hỏi, trong trường hợp này đơn vị tư vấn đánh giá như vậy là đúng hay sai?
Bộ Kế hoạch và Đầu tư trả lời vấn đề này như sau:
Khoản 42, Điều 4 và Khoản 4, Điều 11 Luật Đấu thầu số 43/2013/QH13 quy định thời gian có hiệu lực của HSDT là số ngày được quy định trong HSMT và được tính kể từ ngày có thời điểm đóng thầu đến ngày cuối cùng có hiệu lực theo quy định trong HSMT. Từ thời điểm đóng thầu đến hết 24 giờ của ngày đóng thầu được tính là 1 ngày. Thời gian có hiệu lực của bảo đảm dự thầu được quy định trong HSMT bằng thời gian có hiệu lực của HSDT cộng thêm 30 ngày.
Khoản 1, Điều 15 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP của Chính phủ quy định việc đánh giá HSDT phải căn cứ vào tiêu chuẩn đánh giá HSDT và các yêu cầu khác trong HSMT, căn cứ vào HSDT đã nộp, các tài liệu giải thích, làm rõ HSDT của nhà thầu để bảo đảm lựa chọn được nhà thầu có đủ năng lực và kinh nghiệm, có giải pháp khả thi để thực hiện gói thầu.
Điểm d, Khoản 2, Điều 28 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP của Chính phủ quy định bảo đảm dự thầu hợp lệ là bảo đảm dự thầu với giá trị và thời hạn hiệu lực đáp ứng yêu cầu của hồ sơ mời thầu. Đối với trường hợp quy định bảo đảm dự thầu theo hình thức nộp thư bảo lãnh thì thư bảo lãnh phải được đại diện hợp pháp của tổ chức tín dụng hoặc chi nhánh ngân hàng nước ngoài được thành lập theo pháp luật Việt Nam ký tên với giá trị và thời hạn hiệu lực, đơn vị thụ hưởng theo yêu cầu của hồ sơ mời thầu.
Đối với trường hợp của ông Danh, việc đánh giá hồ sơ dự thầu phải tuân thủ theo quy định nêu trên và thuộc trách nhiệm của tổ chuyên gia, bên mời thầu.