Trong 3 ngày làm việc được ghi trên phiếu hẹn trả kết quả, nếu người lao động không đến nhận hoặc không ủy quyền cho người khác đến nhận quyết định và không thông báo cho trung tâm dịch vụ việc làm về lý do không thể đến nhận thì được coi là không có nhu cầu hưởng trợ cấp thất nghiệp.

Theo Nghị định số 28 năm 2015 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 61 năm 2020, để nhận được tiền trợ cấp thất nghiệp, người lao động thực hiện theo trình tự sau:

Bước 1:  Nộp hồ sơ tới trung tâm dịch vụ việc làm

Khoản 1 Điều 17 Nghị định 28 nêu rõ: Trong thời hạn 3 tháng kể từ ngày chấm dứt hợp, người lao động chưa có việc làm và có nhu cầu hưởng trợ cấp thất nghiệp phải trực tiếp nộp 1 bộ hồ sơ đề nghị hưởng trợ cấp thất nghiệp cho trung tâm dịch vụ việc làm tại địa phương nơi muốn nhận trợ cấp.

Bước 2. Đến trung tâm dịch vụ việc làm giải quyết hồ sơ

Trong vòng 15 ngày kể từ ngày nộp hồ sơ, người lao động chưa tìm được việc làm thì đến trung tâm dịch vụ việc làm thực hiện xác nhận và giải quyết hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp.

Thời điểm hưởng trợ cấp thất nghiệp được tính từ ngày thứ 16 theo ngày làm việc kể từ ngày nộp hồ sơ đề nghị hưởng trợ cấp.

Bước 3. Nhận tiền trợ cấp

Theo khoản 2 Điều 18 Nghị định 28/2015/NĐ-CP, trong 5 ngày làm việc kể từ ngày có quyết định chi trả trợ cấp thất nghiệp, cơ quan bảo hiểm xã hội sẽ chi trả tiền trợ cấp tháng đầu cho người lao động kèm theo thẻ bảo hiểm y tế.

Thời điểm hưởng trợ cấp thất nghiệp được tính từ ngày thứ 16 theo ngày làm việc kể từ ngày nộp hồ sơ đề nghị hưởng trợ cấp (ảnh: minh họa)

Hàng tháng, cơ quan bảo hiểm xã hội chi trả trợ cấp thất nghiệp trong vòng 12 ngày tính từ ngày hưởng trợ cấp thất nghiệp tháng đó nếu không nhận được quyết định tạm dừng, chấm dứt hưởng trợ cấp thất nghiệp của người lao động.

Bước 4. Thông báo tìm kiếm việc làm hàng tháng

Hàng tháng, người lao động phải đến trung tâm dịch vụ việc làm thông báo về việc tìm kiếm việc làm (theo đúng lịch hẹn kèm theo Quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp).

Tuy nhiên, một số trường hợp không đến nhận được trợ cấp thất nghiệp đúng hẹn thì xem như không có nhu cầu hưởng trợ cấp thất nghiệp.

Theo  khoản 8 Điều 1 Nghị định 61 quy định: Trong 3 ngày làm việc được ghi trên phiếu hẹn trả kết quả, nếu người lao động không đến nhận hoặc không ủy quyền cho người khác đến nhận quyết định và không thông báo cho trung tâm dịch vụ việc làm về lý do không thể đến nhận thì được coi là không có nhu cầu hưởng trợ cấp thất nghiệp.

Sau 3 tháng kể từ ngày người lao động hết hạn hưởng trợ cấp thất nghiệp nhưng người lao động không đến nhận tiền trợ cấp và không thông báo bằng văn bản với cơ quan bảo hiểm xã hội nơi đang hưởng thì người lao động đó được xác định là không có nhu cầu hưởng trợ cấp thất nghiệp.

Thời gian đóng bảo hiểm thất nghiệp tương ứng với số tiền trợ cấp thất nghiệp không đến nhận được bảo lưu làm căn cứ để tính thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp cho lần hưởng trợ cấp tiếp theo.

Vì vậy, pháp luật hiện hành chỉ đề cập tới việc nhờ người khác nhận hộ quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp, chứ không đề cập tới việc nhận hộ tiền trợ cấp.

Do đó, người lao động phải trực tiếp tới nhận tiền trợ cấp thất nghiệp mà không được nhờ người khác làm việc này.

Theo Báo Dân Sinh