1. Gần đây trong giới kiến trúc thường có tranh luận về “Công trình xanh” và “Kiến trúc xanh”. Một số người cho rằng, kiến trúc xanh khác với công trình xanh. Còn số đông thì thấy nó cũng tương đồng, na ná nhau, kiểu như không giống anh em sinh đôi, thì cũng là anh em ruột ! Nếu có khác thì chỉ là ở cách đánh giá. Bởi nói gì thì nói, thì một công trình xanh (dựa vào khoa học công nghệ) hay kiến trúc xanh (dựa vào giải pháp kiến trúc qua sáng tạo của KTS) chỉ được công nhận là “Xanh” khi tác động của nó đối với môi trường tự nhiên và sức khỏe của con người phải ở mức thấp nhất, và khi sự tác động ấy đến độ bằng 0 thì công trình xanh (hay kiến trúc xanh) đó được gọi là “bền vững”. Chính vì thế không phải cứ được gọi là công trình xanh (hay kiến trúc xanh) là công trình đó mang tính bền vững (mà như hiện nay rất nhiều ai đó ngộ nhận?!).
Trào lưu công trình xanh (Green Building) ra đời vào những năm 90 của thế kỷ trước, nhằm khuyến khích việc xây dựng những tòa nhà (công trình) thân thiện với thiên nhiên, góp phần bảo vệ hệ sinh thái, bảo vệ môi trường sống cho con người như: sử dụng năng lượng tự nhiên, năng lượng tái tạo, giảm phát thải khí CO2; khai thác tài nguyên thiên nhiên hợp lý, tiết kiệm nguồn nước và vật liệu xây dựng; Tạo môi trường sống tốt, đảm bảo sức khỏe cho người dân…
Ra đời trong bối cảnh trái đất đang có xu hướng nóng lên, hệ sinh thái đang bị phá hủy nghiêm trọng, tài nguyên đang cạn kiệt, thảm họa thiên tai nhiều hơn, gây hậu quả lớn hơn bởi biến đổi khí hậu gây ra trên phạm vi toàn cầu, nên công trình xanh được coi là hoạt động hiệu quả nhất trong lĩnh vực xây dựng (một hoạt động phát thải ra 40% lượng khí CO2 toàn thế giới và cũng tiêu tốn cần ấy năng lượng toàn cầu) để đối phó với biến đổi khí hậu. Phong trào Công trình xanh rất nhanh chóng nhận được sự ủng hộ của cộng đồng trên thế giới, thậm chí còn được coi là một cuộc Cách mạng về lĩnh vực xây dựng trong thế kỷ XXI.
Tháng 12/2015, tại Hội nghị thượng đỉnh COP 21 ở Paris (Pháp), lần đầu tiên Lãnh đạo của các nước trên thế giới ra tuyên ngôn khẳng định “ Công trình xanh phải là một phần giải pháp để giảm thiểu biến đổi khí hậu. Để làm được điều này, thì nó cần trở thành một phong trào rộng khắp trên toàn lĩnh vực xây dựng thế giới. Công trình xanh sẽ làm môi trường sống của con người trên trái đất trở nên tốt đẹp hơn…”.
Có rất nhiều bộ tiêu chí được áp dụng để đánh giá công trình xanh, như LEED của Mỹ, Grenn Star của Australia, BCA Grenn Mark của Singapore… hay LOTUS do Hội đồng công trình xanh Việt Nam (thành viên của Hội đồng công trình xanh thế giới World GBC) đề xuất đang được áp dụng ở nước ta.
2. Khoảng mươi năm trở lại đây, xu hướng phát triển công trình xanh, kiến trúc xanh được nhà nước và các hội nghề nghiệp (mà Hội KTS Việt Nam là tiên phong) cổ vũ, khuyến khích. Rất nhiều KTS trẻ đã được tôn vinh trên diễn đàn kiến trúc thế giới bằng các tác phẩm kiến trúc xanh, mà tiêu biểu là KTS Võ Trọng Nghĩa. Trong lĩnh vực bất động sản, nhiều nhà đầu tư lớn cũng đã và đang bước đầu thành công với những sản phẩm chung cư, khu đô thị mới đáp ứng một phần các tiêu chí của công trình xanh. Đây là điều rất đáng mừng và đáng khích lệ. Thế nhưng, các tiêu chí đánh giá công trình xanh hay kiến trúc xanh không phải là bắt buộc (như quy chuẩn, quy định của nhà nước), mà đó chỉ là khuyến cáo, là đòi hỏi của xã hội trước đạo đức, lương tâm nghề nghiệp, trách nhiệm của KTS, của người xây dựng và các nhà đầu tư (?!)
Khái niệm “Công trình xanh” hay “Kiến trúc xanh” đã trở nên quen thuộc trong hoạt động xây dựng-kiến trúc, nhưng với xã hội, với đại đa số dân chúng, khái niệm trên nghe có vẻ cao siêu, xa vời. Thực tế đã và vẫn đang diễn ra trên đất nước này, người dân vẫn “hồn nhiên” tự xây cất lấy chỗ ở của mình theo kinh nghiệm truyền thống cha ông “Lấy vợ đàn bà/Làm nhà hướng nam”. Cái thủa sơ khai, chả biết gì đến đèn điện, quạt máy… người Việt mình đã biết dựng nhà bằng những vật liệu sẵn có từ ngoài ruộng cho đến vườn nhà. Mà nông thôn là ví dụ điển hình. Nhà ở của nông dân được dựng lên trong một khuôn viên từ vài trăm đến cả ngàn m2, có vườn cây, ao cá. Nhà làm ba gian hai chái, vách đất, mái lợp rạ, hay lá gồi, đặt theo hướng nam để đón gió đông nam về mùa hè, tránh gió mùa đông bắc vào mùa đông. Trước nhà có sân rộng để phơi thóc, sinh hoạt gia đình, tiếp đến là hàng cau cao vút, thân thẳng tắp với hương hoa cau dìu dịu và vườn cây, ao thả cá (nếu có). Phía sau nhà thường được trồng chuối vừa cho quả ăn vừa có tác dụng che nắng gắt về mùa hè, ngăn gió lạnh về mùa đông. Bao bọc chung quanh nhà là bờ rào bằng cây xanh, như hàng chè tàu bốn mùa xanh mướt ở vùng nông thôn xứ Huế, hàng dâm bụt nở hoa đỏ rực, hay kín dậu mồng tơi ở làng quê phía Bắc.
Nhiều làng ở vùng bán sơn địa Sơn Tây do có nguồn đá quý, gọi là đá ong, có màu nâu đỏ, xốp lỗ chỗ như tổ ong, nằm dưới mặt đất, khi khai thác thì đá mềm, nhưng đưa lên bờ thì cứng, và theo thời gian độ cứng càng cao, nên được người dân lấy để xây dựng nhà cửa, tường rào, cổng nhà, cổng làng, các công trình tôn giáo tín ngưỡng như chùa miếu… tạo nên một quần thể kiến trúc nông thôn rất đặc sắc. Cấu trúc không gian làng và nhà ở nông thôn truyền thống đều không theo thiết kế của KTS hay một thứ quy hoạch áp đặt nào đó. Nó được hình thành bởi sự sáng tạo, bàn tay tài hoa và sức lao động cần cù của người nông dân, tạo nên một không gian sống rất hài hòa, thân thiện với thiên nhiên, với cảnh quan đồng quê, với con người và với cộng đồng làng xã. Kiến trúc làng đã trở thành một phần của kho tàng văn hóa dân tộc, là di sản của nền kiến trúc Việt Nam.
Nhưng ngày nay, trước cơn lốc đô thị hóa, hiện đại hóa và đòi hỏi của tăng trưởng kinh tế, cấu trúc làng truyền thống đã và đang bị phá vỡ để thay vào đó là một cấu trúc mới “Phố trong làng” và được sắp đặt theo quy hoạch mới với những kiến trúc phi nông thôn xa lạ (?!). Màu xanh của vườn cây ao cá dần biến mất. Tất cả được bê tông hóa, gạch hóa và tôn hóa?!. Ngay cả Chương trình nông thôn mới của Chính phủ dù đã rất cố gắng cải thiện kinh tế nông thôn, nâng cao đời sống vật chất và văn hóa cho nông dân, nhưng vẫn thiếu những biện pháp cụ thể, hữu hiệu để bảo tồn và phát huy giá trị của kiến trúc làng truyền thống trong điều kiện phát triển mới. Đây là điều rất đáng tiếc!
Còn các đô thị của chúng ta thì cũng đang đối mặt với những bất cập trong quá trình phát triển. Trong khi chính quyền đô thị đang cố gắng với rất nhiều chủ trương, giải pháp và quyết tâm chính trị cao để sớm đưa đô thị trở thành đô thị xanh, đô thị thông minh, đô thị 4.0, thì kịch bản cho đô thị xanh vẫn còn nhiều bất cập. Đô thị là một tổ hợp vật chất khổng lồ của rất nhiều công trình, kiến trúc khác nhau được sắp đặt theo quy hoạch trên cái nền địa chính trị và kinh tế . Vì thế, muốn có đô thị xanh thì phải bắt đầu từ những công trình xanh, ngôi nhà xanh đến đường phố xanh, khu phố xanh. Và tất nhiên, trên tất cả phải có nhà quản trị xanh, rồi những công dân xanh.
Một đường phố thưa thớt bóng cây, lúc nào cũng tắc nghẽn giao thông, đầy bụi, khí thải và tiếng ồn bởi tiếng tiếng động cơ, tiếng còi xe rú rít thì sao gọi là xanh được. Những ngôi nhà phố với mặt tiền bưng kín bởi biển quảng cáo xanh đỏ, hay ban công, lô gia được bảo vệ bởi “những chuồng cọp” thì sao gọi là ngôi nhà xanh. Những tòa nhà chung cư cao ba bốn chục tầng bằng bê tông và kính đứng san sát nhau trên dọc các trục đại lộ gây ra hiệu ứng bê tông, hiệu ứng nhà kính, ngày ngày thải vô vàn khí CO2 vào bầu trời thì sao gọi là chung cư xanh. Các dòng sông trong thành phố đã và đang chết, trở thành những cống hở chứa nước thải và rác thải, cùng các hồ nước đang bị ô nhiễm nặng nề đe dọa sự tồn vong của các loài thủy sinh thì thành phố sao gọi là xanh được. Thành phố không thể “Xanh”, khi mà người dân vẫn vô tư xả rác xuống đường, nơi công cộng. Khi mà văn hóa ứng xử, văn hóa giao thông không được coi trọng, thì việc xén vỉa hè, dải phân cách, chặt cây xanh để mở rộng đường để giảm ùn tắc chỉ là biện pháp tức thời.
3. Có rất nhiều, rất nhiều vấn đề phải giải quyết để xây dựng một thành phố xanh. Dẫu biết rằng, khái niệm “Xanh” không phải chỉ nói về cây xanh, mà theo như Osman Attmann “ Xanh là khái niệm biểu tượng, bao gồm các thuật ngữ bền vững, sinh thái và hiệu quả”, hay như Ken Yeang thì “Kiến trúc xanh hoặc kiến trúc bền vững đơn thuần chỉ là những thuật ngữ khác nhau về vấn đề thiết kế với thiên nhiên, thiết kế với môi trường”. Nhưng cây xanh, mặt nước, không gian xanh, không gian công cộng bao giờ cũng là những yếu tố để tạo ra một đô thị xanh. Vì thế việc chặt hạ, hay di chuyển một hàng cây, san lấp vài chục ha hồ nước, thu hẹp vài chục ngàn m2 không gian công cộng để lấy đất xây dựng chung cư cao tầng, trung tâm thương mại, công trình thể thao hay công trình phục vụ giao thông, phục vụ cho sự phát triển đều là những bài toán nan giải, đòi hỏi chính quyền đô thị phải có những giải pháp đúng đắn nhất, nhân văn nhất và “xanh” nhất.
Thành phố không thể “Xanh” khi mà giá trị của không gian công cộng, vườn hoa, công viên không bằng giá trị của các dự án bất động sản?!.
Còn bây giờ, khi mà câu chuyện về đô thị xanh, về công trình xanh còn chưa có hồi kết và cũng chưa biết đến khi nào mới có hồi kết, thì mỗi một gia đình chúng ta trong đô thị hãy tự làm xanh hóa ngôi nhà của mình để môi trường sống được trong lành hơn, để con người gần gũi với thiên nhiên nhiều hơn. Hãy biến cái mái nhà của mình thành một không gian xanh với những chậu cây xanh, rau xanh tươi mát, hay những khóm hoa đủ sắc mầu ngan ngát hương đưa mỗi buổi sáng mai…
Nếu được như vậy, là chúng ta đang góp phần vào xây dựng thành phố xanh của mình./.
KTS. Phạm Thanh Tùng