Vì sao lạm phát nửa đầu năm ở mức thấp? 

Lạm phát đang là chủ đề nóng nhất trong các cuộc thảo luận kinh tế trên quy mô toàn cầu. Tại Mỹ, lạm phát tháng 6 đã lên tới 9,1%, mức cao nhất trong vòng 40 năm qua. Còn tại EU, lạm phát tháng 6 đã chạm ngưỡng 8,6%, lập kỷ lục kể từ năm 1997. Các nền kinh tế lớn khác cũng đang có mức lạm phát cao chưa từng có: Anh (9,1%, cao nhất trong 40 năm), Canada (7,7%, cao nhất từ năm 1983), Thuỵ Điển (7,3%, cao nhất từ năm 1991),..

Tại Việt Nam, lạm phát tháng 6 cũng đạt 3,37%, cao nhất kể từ năm 2012. Tuy nhiên, không chỉ so với các nước Âu, Mỹ mà so với các nước Châu Á, lạm phát tháng 6 của nước ta vẫn ở mức rất thấp, cụ thể: Thái Lan 7,7%, Philippines 6,1%, Hàn Quốc 6%... Tính chung 6 tháng, lạm phát của Việt Nam đạt 2,44%, là mức tương đối tốt. 

Lý giải về việc lạm phát Việt Nam thấp hơn so với thế giới, TS. Cấn Văn Lực, Chuyên gia Kinh tế trưởng Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV), cho rằng kinh tế nước ta có độ trễ so với diễn biến của kinh tế thế giới đồng thời lạm phát cơ bản tăng thấp (chỉ 1,25%). 

TS. Cấn Văn Lực nếu ra 5 lý do cơ bản giúp Việt Nam kiềm chế được lạm phát. Thứ nhất, giá xăng được bình ổn tương đối nhanh. Thứ hai, đảm bảo nguồn cung hàng hoá. Thứ ba, một số mặt hàng được điều tiết tương đối mạnh (giá điện không tăng, viện phí không tăng dồn dập vào một thời điểm). Thứ tư, Ngân hàng Nhà nước điều hành linh hoạt công cụ chính sách (hút khoảng 135.000 tỷ đồng). Thứ năm, cung tiền vừa phải. 

Giải thích sâu hơn về lạm phát 6 tháng, TS. Nguyễn Bích Lâm (nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê) cho biết, có 7 nhóm hàng Việt Nam đảm bảo tốt, giúp giá tiêu dùng không tăng nhanh. Đáng kể trong số đó là lương thực, thực phẩm. Việt Nam luôn chủ động được nguồn cung lương thực, thực phẩm nên hạn chế được tốc độ tăng giá của mặt hàng này trong bối cảnh lạm phát gia tăng tại hầu hết các nền kinh tế, nhất là sau khi nổ ra khủng hoảng Nga - Ukraine. 

"Chủ động nguồn cung với giá ổn định lương thực - thực phẩm là yếu tố quan trọng giúp Việt Nam kiểm soát được lạm phát trong những tháng đầu năm nay", TS. Lâm nhấn mạnh. 

TS Nguyễn Bích Lâm cho rằng việc chủ động nguồn cung với giá ổn định lương thực - thực phẩm là yếu tố quan trọng giúp Việt Nam kiểm soát được lạm phát 
TS Nguyễn Bích Lâm cho rằng việc chủ động nguồn cung với giá ổn định lương thực - thực phẩm là yếu tố quan trọng giúp Việt Nam kiểm soát được lạm phát 

Áp lực phía trước rất lớn

Mặc dù lạm phát 6 tháng đầu năm đã được kiểm soát thành công, tuy nhiên với mục tiêu khống chế lạm phát năm 2022 ở mức 4%, có thể thấy dư địa cho Việt Nam hiện không còn nhiều. Mặt khác, áp lực lạm phát trong 6 tháng cuối năm đang rất lớn. 

TS. Nguyễn Bích Lâm nhìn nhận: "Lạm phát chuỗi cung ứng là nhóm yếu tố tạo áp lực lớn nhất đến lạm phát của nền kinh tế trong thời gian tới do kinh tế nước ta có độ mở lớn, sản xuất phụ thuộc nhiều vào nguyên vật liệu nhập khẩu từ bên ngoài, với tỷ lệ 37% chi phí nguyên vật liệu nhập khẩu trong tổng chi phí nguyên vật liệu của toàn nền kinh tế. Tỷ lệ này trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo - ngành có vai trò là động lực tăng trưởng chủ yếu của nền kinh tế chiếm 50,98%".

"Bên cạnh đó, đại dịch và khủng hoảng Nga - Ukraine đã đẩy giá nguyên, nhiên vật liệu thế giới tăng cao, kéo giá nguyên nhiên vật liệu trong nước tăng theo, tạo áp lực lên hoạt động sản xuất của doanh nghiệp, qua đó tạo áp lực lên lạm phát. Đồng thời, tổng cầu tăng đột biến trong bối cảnh đứt gãy chuỗi cung ứng cũng là yếu tố gây áp lực lên lạm phát trong thời gian tới", TS. Lâm cho hay. 

Đồng quan điểm, TS. Cấn Văn Lực cũng đánh giá áp lực lạm phát từ giờ tới cuối năm khá lớn. Ông Lực nhấn mạnh giá hàng hoá thế giới còn tăng và Việt Nam có nguy cơ nhập khẩu lạm phát, do phụ thuộc nhiều vào hàng hoá nhập khẩu. 

"Đà phục hồi kinh tế và sự sôi động của các hoạt động sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng cũng tạo ra áp lực lạm phát cầu kéo. Tỷ giá chịu áp lực tăng khá rõ (2,5% - 3% năm 2022). CPI tăng khoảng 3,8% - 4,2% (có thể cao hơn nữa) năm 2022 và 4% năm 2023", ông Lực dự báo. 

Theo TS. Lực, có một số yếu tố chính sẽ hỗ trợ kiềm chế đà tăng của lạm phát. Thứ nhất là kỳ vọng đà tăng giá cả hàng hoá, xăng dầu thế giới sẽ chậm lại và việc điều tiết giá cả hàng hoá, xăng dầu trong nước tiếp tục phát huy hiệu quả. Thứ hai là tỷ giá và lãi suất kỳ vọng vẫn trong tầm kiểm soát, góp phần kiềm chế đà tăng giá. Thứ ba là sự phối hợp ngày càng nhịp nhàng hơn giữa chính sách tiền tệ, chính sách tài khoá và giá cả. 

Đưa ra các khuyến nghị chính sách cụ thể, TS. Nguyễn Bích Lâm cho rằng, Chính phủ và các địa phương cùng cộng đồng doanh nghiệp cần thực hiện một số giải pháp sau:

Thứ nhất, Chính phủ cần kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cơ chế, chính sách, thủ tục hành chính, rà soát bãi bỏ các quy định không hợp lý nhằm cắt giảm chi phí đầu vào cho doanh nghiệp, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, thông thoáng, thúc đẩy tổng cung, giảm áp lực lạm phát. 

Thứ hai, trong bối cảnh đứt gãy chuỗi cung ứng, các nước thực hiện lệnh trừng phạt của Mỹ và phương Tây đối với Nga làm trầm trọng thêm thiếu hụt nguồn cung, Chính phủ cùng các bộ, ngành liên quan, đặc biệt cộng đồng doanh nghiệp cần đa dạng nguồn cung, đảm bảo nguồn cung của từng nhóm nguyên vật liệu của mỗi ngành không phụ thuôc vào một thị trường, một khu vực. 

Thứ ba, Bộ Công thương và Bộ Tài chính cần minh bạch và đơn giản hoá quy trình thương mại; khuyến khích và đẩy mạnh chia sẻ thông tin về thương mại và giá cả; thúc đẩy cạnh tranh trong nước đối với lĩnh vực logistics, thương mại bán buôn và bán lẻ để giảm chi phí thương mại trong nước và quốc tế, giữ khả năng cạnh tranh và thị phần của hàng hoá Việt trên thị trường thế giới. 

Cùng với đó, 2 Bộ cần tăng cường thanh tra, kiểm tra, kiên quyết xử lý nghiêm nếu phát hiện có hành vi đầu cơ, tích trữ, thao túng giá. Đối với các mặt hàng thiếu hụt trong dài hạn cần có chính sách ưu đãi, khuyến khích đầu tư sản xuất các mặt hàng này, chủ động nguồn nguyên vật liệu, tăng tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế.

Thứ tư, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Bộ Tài chính cần phối hợp chặt chẽ, thực hiện hài hoà chính sách tài khoá và tiền tệ; chủ động và linh hoạt điều tiết thị trường tiền tệ, lãi suất và tỷ giá trong bối cảnh ngân hàng trung ương các nền kinh tế lớn, phát triển nâng lãi suất để kiểm soát lạm phát; đảm bảo tính thanh khoản, hỗ trợ cho doanh nghiệp ổn định sản xuất và hỗ trợ xuất nhập khẩu của nền kinh tế. 

"Tình hình chính trị, kinh tế thế giới diễn biến mau lẹ, khó lường, các biện pháp trừng phạt và trả đũa khốc liệt chưa từng có. Vì vậy, việc ban hành chính sách và giải pháp phải nhanh, thiết thực, đảm bảo minh bạch, gắn với đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống, điều chỉnh linh hoạt theo tốc độ phục hồi của nền kinh tế và áp lực lạm phát gia tăng", TS. Lâm khuyến cáo./.

Theo Reatimes.vn

Nguồn: https://reatimes.vn/lam-phat-nua-dau-nam-2022-chi-244--20201224000013124.html