Không thể thiếu vốn tín dụng cho sản xuất kinh doanh

Một trong những nhiệm vụ của Ngân hàng Nhà nước trong thời gian tới là vừa điều hành tăng trưởng tín dụng phù hợp, nhưng vừa phải hạn chế nợ xấu gia tăng. Đây là một bài toán khó cho ngành ngân hàng trong bối cảnh dịch Covid-19, thiên tai bão, lũ đang khiến người dân và doanh nghiệp gặp khó.

Tại buổi trao quyết định của Chủ tịch nước bổ nhiệm Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đối với bà Nguyễn Thị Hồng mới đây, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã giao nhiệm vụ cho tân Thống đốc NHNN.

Trong đó, ngoài định hướng phải nhất quán mục tiêu kiểm soát lạm phát ở mức thấp, kinh tế vĩ mô ổn định để phát triển nhanh và bền vững; điều hành linh hoạt, hiệu quả chính sách tiền tệ, tín dụng, góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp tiếp cận tín dụng chi phí thấp, thủ tục đơn giản, thuận tiện, Thủ tướng cũng yêu cầu NHNN, không được để thiếu vốn tín dụng cho các lĩnh vực và dự án sản xuất kinh doanh có hiệu quả, có nhu cầu, có năng lực sản xuất mới, đặc biệt các dự án ứng dụng công nghệ cao, phát triển kinh tế số, để tạo động lực tăng trưởng kinh tế.

Lượng các doanh nghiệp năm 2020 phải ngừng hoạt động tăng cao so với năm ngoái, cho thấy nhu cầu hấp thụ tín dụng còn yếu. Ảnh:TL

Để phục vụ phát triển sản xuất, ngành ngân hàng cũng cần tiếp tục xóa, giảm, giãn, hoãn, cơ cấu lại nợ cho các tỉnh miền Trung vừa qua chịu thiên tai, bão lũ trên cơ sở phù hợp các quy định của pháp luật…

Một yêu cầu đặc biệt quan trọng nữa được Thủ tướng đặt ra, đó là tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại các tổ chức tín dụng (TCTD) gắn với xử lý nợ xấu, nhất là đối với các ngân hàng yếu kém. Thủ tướng nhấn mạnh, NHNN phải vừa hạn chế nợ xấu gia tăng, vừa giảm nợ xấu đang có, vừa có cơ chế để các tổ chức tín dụng phát triển lành mạnh, bền vững.

Đây thực sự là nhiệm vụ khó khăn đối với NHNN trong bối cảnh đại dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, tình hình bão, lũ liên tiếp xảy ra gây thiệt hại rất lớn cho người dân và doanh nghiệp.

Theo số liệu mới nhất, trong 10 tháng năm 2020, cả nước có 111.160 doanh nghiệp thành lập mới, giảm 2,9% so với cùng kỳ năm 2019; có 85.541 doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường, tăng 58,7% với cùng kỳ năm 2019.

Theo các chuyên gia kinh tế, lượng các doanh nghiệp phải ngừng hoạt động tăng cao so với năm ngoái, cho thấy nhu cầu hấp thụ tín dụng còn yếu, đặc biệt trong bối cảnh dịch Covid-19 trên thế giới còn diễn biến phức tạp, kinh tế toàn cầu suy giảm, cộng thêm với tình hình thiên tai bão lũ trong nước liên tiếp xảy ra.

Thông tin về kết quả hoạt động của ngành ngân hàng mới đây, ông Phạm Chí Quang - Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách tiền tệ (NHNN) cho biết, trong bối cảnh nền kinh tế bị ảnh hưởng nặng nề bởi dịch bệnh Covid-19, trong những tháng đầu năm, NHNN đã liên tiếp điều chỉnh giảm 2 lần các mức lãi suất điều hành với tổng mức giảm 1-1,5%/năm để hỗ trợ thanh khoản cho tổ chức tín dụng tạo điều kiện cho tổ chức tín dụng tiếp cận nguồn vốn chi phí thấp từ NHNN; giảm 0,6-0,75%/năm trần lãi suất tiền gửi các kỳ hạn dưới 6 tháng và giảm 1%/năm trần lãi suất cho vay ngắn hạn đối với các lĩnh vực ưu tiên, hiện ở mức 5,0%/năm, để hỗ trợ giảm chi phí vay vốn của doanh nghiệp và người dân.

Báo cáo của Vụ Tín dụng các ngành kinh tế (NHNN) cho thấy, thời gian qua, các ngân hàng thương mại triển khai nhiều giải pháp hỗ trợ khách hàng. Trong đó, tính tới quý III/2020, các tổ chức tín dụng đã cơ cấu lại thời gian hạn trả nợ cho trên 271 nghìn khách hàng, với dư nợ 321 nghìn tỷ đồng. Đồng thời, các tổ chức tín dụng cũng đã miễn, giảm, hạ lãi suất cho gần 485 nghìn khách hàng với dư nợ 1,18 triệu tỷ đồng. Ngoài ra, các tổ chức tín dụng đã cho vay mới lãi suất ưu đãi (thấp hơn phổ biến từ 0,5 - 2,5% so với trước thời điểm có dịch Covid-19) với doanh số lũy kế từ 23/1 đến nay đạt 1,6 triệu tỷ đồng cho 310 nghìn khách hàng.

Theo ông Nguyễn Tuấn Anh - Vụ trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế (NHNN), mặc dù các ngân hàng đưa ra nhiều gói tín dụng lãi suất thấp, NHNN cũng nới room cho tất cả các ngân hàng có nhu cầu và có khả năng tăng trưởng tín dụng, song số lượng khách hàng có nhu cầu vay vẫn rất ít. Tổng số dư nợ tín dụng bị ảnh hưởng bởi Covid-19 lên tới 25%.  

Áp lực nợ xấu

Một thực tế mà các ngân hàng đang phải đối mặt đó là những rủi ro tiềm ẩn từ khối nợ xấu. Xử lý, kiểm soát rủi ro nợ xấu như thế nào đang là bài toán đặt ra cho ngành ngân hàng.

Chỉ thị số 01/CT-NHNN về tổ chức thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm của ngành ngân hàng trong năm 2020 có đặt ra mục tiêu đưa tỷ lệ nợ xấu nội bảng xuống dưới 2%; tỷ lệ nợ xấu nội bảng của các TCTD, nợ xấu đã bán cho Công ty TNHH MTV Quản lý tài sản các TCTD Việt Nam (VAMC) và nợ đã thực hiện các biện pháp phân loại nợ xuống dưới 3%.

Tuy nhiên, theo báo cáo quý III/2020 của một số ngân hàng, tỷ lệ nợ xấu quý III năm nay đã tăng trung bình khoảng 30% so với quý II/2020. Trong khi đó, số liệu của Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV dự báo, nợ xấu nội bảng đến cuối năm 2020 có thể ở mức 3% và cuối năm 2021 sẽ tăng lên 4%.

Việc xử lý nợ xấu được dự báo sẽ gặp khó khăn hơn do những tác động của dịch Covid-19. Ảnh:TL

Việc xử lý nợ xấu cũng được dự báo sẽ gặp khó khăn hơn do những tác động của dịch Covid-19 đến hệ thống ngân hàng có độ trễ hơn so với doanh nghiệp.

Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV cũng dự báo, trong quý III và quý IV của năm 2020 sẽ là thời điểm ngành ngân hàng chịu những hậu quả từ tác động tiêu cực của dịch Covid-19. Thách thức, khó khăn lớn nhất của ngành ngân hàng sẽ là vấn đề xử lý nợ xấu.

Siết tín dụng vào lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro, tiếp tục giãn, hoãn nợ

Lý giải về nợ xấu, lãnh đạo NHNN cho biết, có thể nợ xấu xuất phát từ nguyên nhân kỹ thuật. Theo đó, từ đầu năm đến nay, tại một số ngân hàng có xu hướng nợ xấu tăng lên. Khối nợ xấu này phần lớn là do tác động từ dịch Covid-19 làm ảnh hưởng tới mọi mặt đời sống kinh tế. Dư nợ tín dụng trong bối cảnh năm 2020 không tăng cao như các năm trước, nên trong phép tính nợ xấu trên tổng dư nợ có thể khiến tỷ lệ nợ xấu tăng lên.

Lãnh đạo NHNN cũng đưa ra nhận định, nếu thời gian tới, dịch bệnh còn diễn biến phức tạp chắc chắn sẽ tác động đến tỷ lệ nợ xấu của hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên, NHNN cũng đã có đánh giá, phân tích để ứng phó với tình hình này nhằm đảm bảo an toàn cho hệ thống.

Theo một số chuyên gia kinh tế, nguy cơ nợ xấu tiềm ẩn nhiều rủi ro cho hệ thống ngân hàng gia tăng, nhưng nguồn gốc của các khoản nợ tiềm ẩn này phần lớn đến từ lĩnh vực sản xuất kinh doanh, do đó, có thể dễ dàng phục hồi hơn là nợ xấu đến từ những lĩnh vực tạo bong bóng như những giai đoạn trước.

Như vậy, việc minh bạch các khoản nợ xấu, đồng thời áp dụng chính sách hỗ trợ giảm chi phí vốn cho doanh nghiệp, giảm lãi suất hỗ trợ cho sự phục hồi của hoạt động kinh doanh lúc này là rất cần thiết để giảm áp lực nợ xấu cho ngành ngân hàng.

Theo lãnh đạo Vụ Tín dụng các ngành kinh tế (NHNN), từ nay tới cuối năm, NHNN sẽ tiếp tục xử lý các khó khăn, vướng mắc liên quan đến cơ chế, chính sách cấp tín dụng nhằm hỗ trợ các đối tượng chịu tác động của dịch Covid-19 và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận vốn tín dụng phục vụ sản xuất, kinh doanh. Bên cạnh đó, NHNN sẽ tiếp tục kiểm soát chặt chẽ tín dụng đối với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro, tín dụng tiêu dùng và cho vay bằng ngoại tệ.

Nhìn nhận từ việc áp dụng Nghị quyết 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các TCTD, ông Trần Hoàng Ngân - đại biểu Quốc hội (TP.HCM), Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển TP.HCM cũng nêu rõ, năm 2020 là năm rất đặc biệt khi khó khăn chồng chất liên tiếp do dịch bệnh, thiên tai. Các ngân hàng vẫn đảm bảo có lợi nhuận nhưng tỷ lệ nợ xấu cũng gia tăng. Điều này cũng có thể hiểu được bởi dịch Covid-19 gây tác hại nghiêm trọng trên toàn cầu và không chỉ có số người tử vong cao mà hàng loạt doanh nghiệp cũng rơi vào trạng thái “chết”.

Không riêng gì Việt Nam, số doanh nghiệp tạm dừng hoạt động, giải thể trên thế giới cũng rất lớn. Quốc gia nào cũng phải đối đầu với nợ xấu do số doanh nghiệp giải thể lớn, hoạt động không có hiệu quả. Do đó, bài toán xử lý nợ xấu tiếp tục được đưa ra trong hoạt động kinh doanh của hệ thống ngân hàng.

Ông Trần Hoàng Ngân đánh giá, nhờ thực hiện Nghị quyết số 42, các ngân hàng hoạt động hiệu quả trong thời gian qua nên đã tích tụ được vốn, làm tăng sức chịu đựng của hệ thống. Thời gian tới, các ngân hàng phải tiếp tục tăng trích dự phòng rủi ro nhằm đề phòng cho những bất trắc xảy ra và để có khả năng bù đắp các thâm hụt.

Trong Nghị quyết 42, khi sơ kết và tổng kết vẫn thấy điểm tồn tại, khó khăn nhất là vấn đề sang nhượng quyền sở hữu của các tài sản thế chấp và cầm cố. Nhưng để giải quyết các vấn đề này, phải tiếp tục hoàn thiện luật pháp, đảm bảo cho Nghị quyết đi vào cuộc sống, ông Trần Hoàng Ngân cho biết.

Theo Công luận