Cụ thể, trong tháng 4-2019, xuất khẩu gạo đạt 693.432 tấn, tương đương 287,51 triệu USD, giảm nhẹ 0,04% về lượng và giảm 3,7% về kim ngạch so với tháng trước đó; và cũng giảm 3,9% về lượng, giảm 21,1% về kim ngạch so với tháng 4-2018.
Giá xuất khẩu gạo trong tháng 4-2019 đạt trung bình 414,6 USD/tấn, giảm 3,6% so với tháng liền kề trước đó nhưng giảm 17,9% so với tháng 4-2018.
Tính chung trong 4 tháng đầu năm 2019, xuất khẩu gạo đạt 2,09 triệu tấn, tương đương 893,31 triệu USD, giá trung bình 427,9 USD/tấn giảm cả về lượng, giá và kim ngạch, với mức giảm tương ứng 5,3%, 14,9% và 19,3% so với cùng kỳ năm 2018.
Philippines đứng đầu về thị trường tiêu thụ gạo của Việt Nam chiếm 39% trong tổng lượng gạo xuất khẩu của cả nước và chiếm 35,9% trong tổng kim ngạch, đạt 814.484 tấn, tương đương 320,5 triệu USD, tăng mạnh 343,2% về lượng và tăng 289,7% về kim ngạch so với cùng kỳ năm 2018, giá xuất khẩu sang thị trường này giảm 12% so với cùng kỳ, đạt 393,5 USD/tấn; riêng tháng 4/2019 đạt 276,051 tấn, tương đương 108,77 triệu USD, tăng 17,7% về lượng và tăng 20,2% về kim ngạch so với tháng 3-2019, nhưng so với tháng 4-2018 thì tăng đột biến gấp 41,2 lần về lượng và tăng 36 lần về kim ngạch.
Malaysia đứng thứ 2 thị trường, với 209.457 tấn, tương đương 81,85 triệu USD, giá 390,8 USD/tấn, giảm tương ứng 12,2%, 22,3% và 11,4% so với cùng kỳ; riêng tháng 4-2019 tăng mạnh 65,3% về lượng và tăng 62% về kim ngạch so với tháng 3-2019, đạt 106.859 tấn, tương đương 39,72 triệu USD. Xuất khẩu gạo sang Malaysia chiếm 10% trong tổng lượng và tổng kim ngạch gạo xuất khẩu của cả nước.
Nhìn chung xuất khẩu gạo trong 4 tháng đầu năm nay sang đa số các thị trường tăng kim ngạch so với 4 tháng đầu năm 2018; trong đó xuất khẩu tăng mạnh ở các thị trường sau: Brunei tăng 913,3% về lượng và tăng 858,8% về kim ngạch, đạt 3.273 tấn, tương đương 1,34 triệu USD; Senegal tăng gấp 12,6 lần về lượng và tăng gấp 9 lần về kim ngạch, đạt 591 tấn, tương đương 0,3 triệu USD; Ba Lan tăng 663% về lượng và tăng 574% về kim ngạch, đạt 1.259 tấn, tương đương 0,66 triệu USD; Angola tăng 563,5% về lượng và tăng 416,5% về kim ngạch, đạt 9.859 tấn, tương đương 3,53 triệu USD.