Quốc hội đã chính thức thông qua Nghị quyết của Quốc hội bổ sung kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2025, nâng mục tiêu tăng trưởng đạt 8% trở lên. Trong bối cảnh đó, chuyên gia cho rằng, tín dụng ngân hàng cũng cần có mức tăng trưởng tương xứng để phục vụ cho mục tiêu tăng trưởng rất thách thức trong năm 2025 và hai con số giai đoạn 2026 - 2030.
Song, việc mở rộng tín dụng cũng đặt ra bài toán lớn cho chính sách tiền tệ, làm thế nào để tín dụng vừa hỗ trợ tăng trưởng, vừa đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô?
Mở rộng tín dụng không đảm bảo GDP tăng trưởng tương ứng
Ngay từ đầu năm, phát biểu tại Họp báo thông tin kết quả hoạt động ngân hàng năm 2024 và triển khai nhiệm vụ năm 2025, Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Đào Minh Tú cho biết, thông thường, nếu tín dụng tăng 2%, sẽ đóng góp 1% vào tăng trưởng GDP. Chẳng hạn, năm 2023, GDP tăng trưởng gần 7% thì tăng trưởng tín dụng ở mức 14,55%. Năm 2024, GDP tăng trưởng 7,09% thì tín dụng tăng trưởng 15,08%. Vì vậy, năm 2025, Ngân hàng Nhà nước đặt mục tiêu tăng trưởng tín dụng khoảng 16% tương ứng với mục tiêu tăng trưởng 8%. Còn nếu tăng trưởng GDP ở mức 10% thì tăng trưởng tín dụng phải đạt 18 - 20%.
ĐBQH Trịnh Xuân An (Đoàn ĐBQH tỉnh Đồng Nai) cũng chia sẻ, tín dụng cần tăng trưởng 18 - 20%, thay vì mục tiêu 16% như kế hoạch của Ngân hàng Nhà nước, thì doanh nghiệp, nền kinh tế mới có đủ nguồn lực để đầu tư, phát triển.
Tuy nhiên, không phải lúc nào việc "bơm" vốn mạnh mẽ vào nền kinh tế cũng đổi lại mức tăng trưởng GDP tương ứng. Nhìn lại quá khứ, năm 2009, nền kinh tế có mức tăng trưởng tín dụng ấn tượng, 37,73%. Song, tăng trưởng GDP năm 2009 chỉ đạt 5,2%. Năm 2010, tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng ước khoảng 27,65%, vượt mục tiêu dự kiến 25% đầu năm. Chỉ số tăng trưởng GDP năm 2010 có bứt phá hơn, đạt 6,78%, là mức tăng trưởng kinh tế cải thiện đáng kể ở thời điểm đó. Nhưng có thể thấy, nguồn vốn tín dụng chưa thực sự phát huy hiệu quả trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Tương tự, năm 2016, Ngân hàng Nhà nước đặt ra mục tiêu tăng trưởng tín dụng ở mức 18 - 20%; và tính đến ngày 29/12/2016, tín dụng tăng 18,71% so với cuối năm 2015, khá tương đồng với mức tăng trưởng tín dụng được chuyên gia đề xuất hiện nay. Tuy nhiên, GDP năm 2026 chỉ tăng 6,21%.

Ông Phan Lê Thành Long, CEO AFA Group.
Chia sẻ về mục tiêu tăng trưởng và tín dụng, ông Phan Lê Thành Long, CEO AFA Group cho rằng, muốn tăng trưởng, chúng ta phải đẩy mạnh tín dụng, tức là "bơm" thêm tiền vào nền kinh tế, nhưng vấn đề đặt ra là chất lượng tín dụng sẽ ra sao.
"Những năm 2009 - 2010, Chính phủ đã triển khai các chính sách kích cầu, trong đó có các gói cho vay hỗ trợ lãi suất. Khi đó, ngân sách hỗ trợ 4% lãi suất, nghĩa là nếu doanh nghiệp vay với lãi suất 12%, thì chỉ phải trả 8%, phần còn lại do ngân sách "gánh vác". Tuy nhiên, chất lượng tín dụng trong giai đoạn này rất thấp, dẫn đến hệ quả là từ 2011 - 2013, bất động sản đóng băng, nợ xấu ngân hàng tăng cao", ông Long nói.
Đặc biệt, trong 10 năm qua, tăng trưởng kinh tế chủ yếu được tài trợ bằng tín dụng ngân hàng. Hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước phụ thuộc chủ yếu vào nguồn vốn tín dụng.
Cụ thể, ông Long dẫn số liệu thống kê từ VIS Rating cho thấy, trong gần 10 năm trở lại đây, tỷ lệ dư nợ tín dụng toàn hệ thống so với GDP danh nghĩa ngày càng tăng. Theo đó, tỷ lệ dư nợ tín dụng trên GDP của Việt Nam năm 2015 là 89,7%; năm 2016 là 97,6%; năm 2017 là 103,5%; năm 2018 là 102,9%; năm 2019 là 110,2%; năm 2020 là 114,3%; năm 2021 là 113,2%; năm 2022 là hơn 125%; năm 2023 tăng xấp xỉ 133% và đến cuối năm 2024 tiếp tục tăng lên khoảng 138%.
"Như vậy, khi đặt mục tiêu tăng trưởng cao, cần cân nhắc đến chất lượng tín dụng. Nếu bơm tiền vào nền kinh tế, đồng nghĩa với việc phải chấp nhận một phần lạm phát. Tuy nhiên, quan trọng là nguồn vốn phải được đầu tư hiệu quả để đảm bảo chất lượng tăng trưởng và tránh những hệ lụy tiêu cực. Nếu việc cung tiền không được kiểm soát tốt, nguy cơ lạm phát sẽ tăng cao", ông Long nói.
Quan trọng là dòng vốn phải đi vào các lĩnh vực mang lại giá trị gia tăng, các dự án khả thi
Có thể thấy, chủ trương đẩy mạnh tăng trưởng tín dụng nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước, giúp doanh nghiệp phục hồi và phát triển sau đại dịch. Nhưng để hạn chế tác động không mong muốn, tín dụng cần được hướng tới các lĩnh vực sản xuất có thể kích thích tăng trưởng kinh tế, các dự án khả thi, thay vì đi vào hoạt động đầu cơ tài sản tài chính và đầu cơ bất động sản.
Theo CEO AFA Group, để cân đối giữa tăng trưởng và chất lượng tín dụng, thì ngân hàng, đặc biệt là các ngân hàng thương mại đóng vai trò quan trọng. Các ngân hàng cần khuyến khích các tổ chức tín dụng rót vốn vào các lĩnh vực ưu tiên, các dự án, công trình trọng điểm… Lĩnh vực bất động sản hiện chiếm hơn 22% tổng dư nợ nền kinh tế (năm 2024), nên cần có giải pháp tháo gỡ khó khăn pháp lý cho các dự án để dòng vốn trong lĩnh vực này luân chuyển nhanh hơn.
Ngoài ra, dư địa tăng trưởng tín dụng năm 2025 cũng nằm ở lĩnh vực xanh và lĩnh vực năng lượng. Các ngân hàng cũng đang mong ngóng Chính phủ ban hành danh mục phân loại xanh để có căn cứ cho vay.

Để hạn chế tác động không mong muốn, tín dụng cần được hướng tới các lĩnh vực sản xuất có thể kích thích tăng trưởng kinh tế, các dự án khả thi. (Ảnh minh họa)
Ông Long cho biết thêm, tăng trưởng GDP có thể đến từ nhiều nguồn: Xuất nhập khẩu, đầu tư FDI, đầu tư công, tiêu dùng và đầu tư tư nhân. Hiện tiêu dùng trong nước vẫn còn yếu, nhưng khi đầu tư công được đẩy mạnh, sẽ tạo hiệu ứng lan tỏa, kích thích hoạt động của các doanh nghiệp.
"Có ý kiến cho rằng những dự án đầu tư công lớn này chủ yếu mang lại lợi ích cho các doanh nghiệp lớn. Nhưng thực tế, khi nền kinh tế vận hành, dòng tiền được luân chuyển sẽ kích thích tiêu dùng và đầu tư. Nếu đầu tư hiệu quả, sẽ tạo ra nguồn thu nhập không chỉ cho các doanh nghiệp lớn, mà còn cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, cũng như người dân. Khi người dân cảm thấy thu nhập tăng, họ sẽ chi tiêu và đầu tư nhiều hơn, từ đó tiếp tục thúc đẩy nền kinh tế phát triển", ông Long phân tích.
Ông Phan Lê Thành Long cũng nhấn mạnh, tăng trưởng cao phải dựa trên điều kiện tiên quyết là giữ được ổn định kinh tế vĩ mô, bao gồm lạm phát và lãi suất thấp, tỷ giá ổn định, hệ thống tài chính lành mạnh, nợ công bền vững.
"Không chỉ giai đoạn 2009 - 2010, chúng ta cũng có bài học từ giai đoạn 2005 - 2006, khi ưu tiên tăng trưởng mà không chú trọng ổn định kinh tế vĩ mô. Do đó, trong suốt thời gian qua và thời gian tới, chính sách của Việt Nam luôn hướng đến mục tiêu tăng trưởng nhưng vẫn phải đảm bảo ổn định vĩ mô", ông Long nói.
Đồng thời, việc Ngân hàng Nhà nước phân bổ hạn mức tín dụng theo từng năm, dựa trên hệ thống đánh giá, xếp hạng từng ngân hàng tuy mang tính hành chính, nhưng làm giảm bớt yếu tố thị trường, giúp ổn định tăng trưởng tín dụng theo các chính sách vĩ mô.
Vì vậy, nếu các ngân hàng có thể tự chủ trong quản trị rủi ro, đặc biệt là rủi ro tín dụng, và không đánh đổi giữa rủi ro với tăng trưởng, đồng thời nâng cao năng lực quản trị, thì Ngân hàng Nhà nước có thể dần chuyển sang cơ chế thị trường nhiều hơn, và từng bước loại bỏ room tín dụng, theo ông Long.
Nguồn: https://reatimes.vn/tang-truong-tin-dung-phai-di-doi-voi-tang-truong-kinh-te-202250226145230548.htm